Te Nguyen
5/23/2022
(tác giả Nguyễn Vĩnh Bình)
Tôi thật rất có phước được là một
y sĩ Hải Quân, và tôi là y sĩ Hải quân duy nhất “được” đi tù “Cải tạo” tại miền
Bắc.
Nhiều người thương hại cho số phận
hẩm hiu của tôi, nhưng tôi coi đó là một hân hạnh. Hân hạnh vì đất nước tôi
trong cuộc tranh đấu cho Độc Lập, Tự Do, Dân Chủ đã trải qua một cuộc chiến anh
dũng. Nay vì vận nước nghiêng ngả, đồng bào lâm cảnh lầm than đau khổ, chúng
tôi bị đi đầy tận miền bắc thì kể như chúng tôi tiếp tục tham dự cuộc chiến
trong phần đen tối nhất và đóng góp phần đời và xương máu để cùng chia xẻ với
cái nhục mất nước chung của toàn dân.
Sau đây tôi xin ghi lại khoảng đời đó của chúng tôi
1. Y Bạ trích ngang
Tôi tốt nghiệp Y Khoa Đại Học năm
1965, và được trưng tập về phục vụ Quân Chủng Hải Quân năm 1966.
Được bổ nhậm làm việc tại Vùng II
Duyên Hải, ở Cát Lở, Vũng Tàu và Bệnh viện Hải Quân ở Saigon và Khối Quân Y thuộc
Bôt Tư Lệnh Hải Quân.
Năm 1972, nhà tôi được Bộ Y Tế bổ
nhậm làm việc tại Trung Tâm Y Tế Toàn Khoa Long Xuyên. Tôi xin thuyên chuyển về
làm tại Bệnh Xá Căn cứ Hải Quân Long Xuyên.
Năm 1973, tôi được biệt phái về
làm việc ở Long Xuyên.
2. Cuộc đổi đời
Thế rồi ngày 30-4-1975 đến.
Một tiểu đội Việt Cộng từ bắc Vàm
Cống rụt rè tiến về thành phố.
Không một tiếng súng.
Không có cảnh đau lòng của bọn
cách mạng 30 nhiễu nhương đường phố.
Nhưng bỗng nhiên mọi việc đều
thay đổi. Một bầu không khí ngột ngạt bổ xuống. Phố xá vắng người. Tiếng ra rả
tối ngày của các loa tuyên truyền là vang động duy nhất của một thành phố đang
hấp hối trở thành thị xã của tỉnh Long Châu Hà của Việt Cộng, gồm Long Xuyên-
Châu Đốc- Hà Tiên cũ.
Công an xử bắn một hai người.
Bệnh nhân Quân Y Viện Long Xuyên
bị đuổi ra đường. Các bạn ở Quân Y Viện bị đưa về đâu không biết.
Anh em chúng tôi ở Bệnh Viện Long
Xuyên rồi thì cũng bị gom vào trung tâm cải huấn cũ. Nơi đây tập trung đầy đủ
quân-dân-cán-chính của chế độ cũ. Nhanh chóng chúng tôi trở thành tù, mặc dù
chánh sách “khoan hồng” bảo là “Cải tạo viên”. Chúng tôi sớm biết thế nào là
ngoan ngoãn tuân hành nội quy cách mạng.
Ban điều hành trại cho một anh
lao công cũ của trại lên nhận thư của một số anh em chúng tôi nhờ chuyển tin tức
về gia đình, để rồi nạp cho trại. Chúng tôi bị tập họp lại và bị “lên lớp”. Những
anh em gởi thơ lén liền bị điều động đi biệt tích, còn lại chúng tôi bị làm nhục,
hăm he đủ điều.
Sau nhiều cuộc “biên chế” (sắp xếp),
dân số tập trung bị chuyển đi dần, mà không biết chuyển đi đâu.
Lối tháng 8/ 75, chúng tôi gồm 5
y sĩ thiếu tá biệt phái của Châu Đốc, Long Xuyên bị đưa qua trại giam tù binh cộng
sản ở Cần Thơ. Lúc này, toàn thể quân nhân thuộc Quân đoàn IV đều bị tập trung,
và cấp tướng và đại tá đã bị chuyển khỏi vùng, còn lại cấp trung tá, thiếu tá
và một binh nhất. Anh này không biết do ai cố vấn, tự động trình diện cải tạo với
cấp bậc thiếu tá, hy vọng sẽ được tốt nghiệp như thiếu tá cải tạo để le lói với
đời. Bị phát giác, nhưng anh vẫn được giữ lại, có lẽ để được xử dụng theo dõi
chúng tôi.
Một hôm chúng tôi đang lao động
nhổ cỏ, một anh bạn thì thầm nhận xét: Việt Nam Xã hội chủ nghĩa sang thiệt!
dùng toàn thành phần bác sĩ để làm việc nhổ cỏ. Mà sang thật, họ bắt chúng tôi
vào tù, chúng tôi phải tự mình biến chế tự làm ra từ chiếc ghế nhỏ để ngồi đến
sạp thiếc để ngủ, từ hội trường đến nhà bếp, từ xây giếng đến đào nhà xí. Bếp
núc cũng do chúng tôi xây, dĩ nhiên nấu nướng cũng do chúng tôi. Đồ ăn thức uống
thì nói cho có, chỉ toàn rau úng, cá ôi, gạo ẩm đầy sỏi cát. Khẩu phần thì ngày
càng hạn chế. Trại cho như vậy là rất tốt để chuẩn bị chúng tôi vào học tập và
đón nhận chân lý cách mạng và nếp sống văn minh của Xã hội chủ nghĩa-
Bài học gồm 10 bài. Nội dung và
cách giảng dạy rất sơ đẳng. Mục đích không phải là thuyết trình lý luận Chủ
nghĩa vô sản, mà chính là để ghép chúng tôi vào tội phản quốc, chống cách mạnh,
là bắt chúng tôi phải nhận đã gây nhiều tội ác “trời không dung, đất không
tha”, và phải thành khẩn khai tội lỗi càng nhiều càng tốt, càng khai nhiều tội
thì càng sớm được cứu xét về lại với gia đình. Chúng tôi còn được khuyến khích,
bắt buộc phải khai báo, phóng đại những “tội ác” có thật hoặc tưởng tượng của
toàn thể các cấp của chế độ cũ. Dĩ nhiên là trại đã thất bại, chúng tôi đã “nín
thở qua sông”, khai báo lấy có.
Sau cùng gần như toàn thể chúng
tôi bị đưa ra miền Bắc.
3. Một chuyến ra đi, trên đất
thù
Vào tháng 6/1976, giờ “đền tội”
đã đến. Giống như Tết Mậu Thân, ở Huế, vì sợ tốn đạn, hơn 3,000 đồng bào bị
chôn sống trong những nấm mồ tập thể, giờ này, để khỏi mang tiếng diệt chủng
như Pol Pot ở Cao Miên, chúng tôi bị đày ra miền Bắc để chết lần mòn, suy kiệt ở
các trại lao tù hẻo lánh của Thượng du Bắc việt.
Chúng tôi xuống những chiếc tàu sắt
dài khoảng 20 thước tại Bình Thủy, Cần Thơ. Qua một khung vuông, chúng tôi leo
xuống một hầm bít bùng chật hẹp vừa đủ chỗ để ngồi sát nhau. Suốt 4 ngày đêm, với
nắp hầm được khép kín, tầu lênh đêng không biết về đâu. Có anh trào phúng cho rằng:
“chúng mình được đưa về phóng thích tại Saigon trước sự chứng kiến của truyền
thông quốc tế để chứng minh chính sách khoan hồng của chế độ”, ai nấy đều ngao
ngán, khoan hồng như thế này à? Cảnh người nô lệ thời trung cổ không thể tệ
hơn.
Anh T.Đ.V, trung tá (dường như là
bạn cột chèo với tướng Ng.C.K) huỵch tẹt cho rằng: chúng nó đưa bọn mình ra Bắc
chớ không có đưa đi đâu hết. Nghe ra ai nấy đều ngỡ ngàng. Miền Bắc xa vời lắm,
đưa ra ngoải để làm gì?
Sau cùng thì đoàn tàu cũng cập bến.
Vừa thoát ra khỏi hầm, ánh bình minh làm chóa mắt sau những ngày trong bóng tối.
“Xem kìa, rặng núi nơi xa kia là rặng núi Bửu Long Biên Hòa, chúng mình sắp được
về Saigon rồi!”. Đó là lần chót chúng tôi nghe nói đến 2 địa danh của miền Nam,
vì hiện tại, chúng tôi đang đặt chân lên miền Bắc Xã hội chủ nghĩa, thành phố
Vinh.
Xế chiều chúng tôi bị dồn vào những
toa xe lửa để xuôi ra Bắc. Đường rầy xe lửa Xuyên Việt thời Pháp để lại, chiều
ngang rất hẹp nên mỗi lần quẹo cua, thì xe chao đảo tưởng chừng như sắp ngã lúc
nào không hay. Từ nay vĩnh viễn xa quê hương, sống chết có nghĩa gì!
Xe lửa chậm chạp đưa chúng tôi
qua làng xã miền Bắc. Chúng tôi qua Thủ Đô Hà Nội nghèo nàn, vượt sông Hồng cạn
nước, và đến một vùng đồi núi, cây cọ vùng Phú Thọ, đất của Tổ Hùng Vương. Trên
toa xe có một linh mục già nhìn ngọn cây cọ xa xa, mắt chan chứa đổ lệ, vì đây
là quê của ngài. Là người đã lìa bỏ quê làng để vào Nam 20 năm trước, nay nhìn
lại cố quận qua khe vách của của xe tù, bảo sao mà cầm được nước mắt! Cha ơi,
con xin chia xẻ và cảm thông với mối xót xa của Cha.
Tối đến, chúng tôi đến một nơi
không biết là đâu, đèn đuốc lu câm. Chúng tôi bị lùa xuống, và hối hả bị đốc xuống
một chiếc phà gỗ nhỏ. Chiếc phà được kéo bằng giây luộc xuống một khúc sông khá
rộng. Đó là phà Yên Bái vượt qua sông Hồng. Chúng tôi bị tách rời thành nhiều
toán, và rải rác phân phối khắp miền Tháp Bà, Lào Kay, Tuyên Quang, Cao Bằng,
Sơn La … Nhóm chúng tôi được chất lên những xe Molotova và vất vả đoàn xe rồng
rắn vượt qua núi đồi. Thế là hết, chúng tôi sẽ được đem đi dấu ở những đỉnh núi
miền Thượng du, để rồi như bầy cua bị nhốt cùng chung một rọ, lần hồi gãy gọng
gãy càng chết lần chết mòn.
Đang mệt mỏi ngủ gà ngủ gật thi
có tiếng quát: “tới rồi, tất cả xuống hết, khẩn trương tập họp …”. Thì ra trời
vừa sáng, một khoảng đất trống đầy sương hiện ra trước mắt, chung quanh núi đồi,
không thấy nhà cửa, trại lều … thật là hoang vắng, sơn dã. Quá xa lạ, ngỡ
ngàng, chúng tôi như con người máy, lũ lượt làm theo lệnh. Tối đến chúng tôi
ngã người xuống đất đầy cỏ gai và sâu, ngủ một giấc không hồn.
Sáng hôm sau thức dậy, chúng tôi
thấy còn sống vì còn nhận ra được mặt mày thân thương của bạn tù. Từng cuộn
khói bốc lên sau các ngọn đồi chung quanh. À, bạn hữu mình cũng được phân phối
quanh đây.
Chúng tôi thuộc Trại 6, Liên trại
4 của Đoàn 776. Tất cả có 9 trại rải rác ở quận Phú Yên, tỉnh Sơn La, nghe nói
cách Điện Biên Phủ 60km về phía tây.
Sau 3 tháng ổn định nơi ăn chốn ở,
có nghĩa là làm từ con số không, với 2 bàn tay trắng chúng tôi đã xây dựng được
trại, láng, và hàng rào tre chia cách các khu. Chúng tôi sống như những người
tiền sử, không đèn đuốc, không dụng cụ, không 1 cây đinh, khúc sắt.
Tuy nhiên việc tẩy não không hề
thiếu vắng. Nào họp tổ, bình bầu, đấu tố (vâng đấu tố) nghĩa là kiểm thảo, tố
cáo, vạch mặt, chửi bới, không thiếu mục nào.
Những thức ăn chúng tôi dấu được
sau nhiều đợt khám xét cạn dần. Cái đói, và bịnh đã xuất hiện.
Trời đã cuối thu, se sẽ lạnh. Từng
cơn gió ào ào thổi qua ngọn cây. Chúng tôi bắt đầu nếm mùi giá lạnh thượng du Bắc
Việt.
Ngay sau khi đến đây được một tuần,
một sáng đang tập họp nhận lệnh công tác lao động trong ngày, một láng báo cáo
vắng mặt 4 anh. Anh em xầm xì “trốn trại!”. Ai nấy đều cảm phục nhưng đầy lo âu
cho 4 anh, thầm mong các anh thoát khỏi.
Bảy ngày sau, bốn anh mình mẩy
sưng vù, máu me, cùm trói như con vật, bị vệ binh kéo xệt về trại, và bị giam
nhốt riêng ra. Về sau bị chuyển nào biết nơi nào. Cả năm sau, anh B, một trong
4 anh, vì bịnh phong, được chuyển về Bịnh viện Yên Bái kể lại. Ngay ngày đầu,
các bạn bàn với nhau và quyết định trốn trại. Các anh tích trữ khẩu phần ăn, muối,
phơi khô. Tạm đủ, các anh rời trại vào buổi tối lối 11 giờ, tương đối dễ, vì vệ
binh canh gác sơ sài. Nhóm gồm có một anh Thiếu tá Biệt Động Quân, trước có
tham dự trận Điện Biên Phủ. Anh hướng dẫn đêm đi, ngày nghỉ, hướng về phía tây,
cố vượt biên giới Việt-Lào, để tìm đường đi Thái Lan … Đến ngày thứ năm bị lộ
vì quá đói, đào trộm sắn (khoai mì) của người Mường. Họ phát giác sắn bị đào,
nên săn đưổi các anh ráo riết và bao vây các anh ở một ngọn đồi. Với giáo mác gậy
gộc, họ lăn xả vào các anh, đánh đập, đâm chém, vừa la hét: “giết, giết bọn hút
máu ăn thịt này, chính bọn này đã hãm hiếp, giết người, đốt làng xã của họ”
Toàn là những luận điệu tuyên truyền của nhà nước với người thiểu số.
Sau một hồi, tưởng là các anh đã
chết, họ mới giao nộp cho công an xã và bọn này giải giao các anh cho bộ đội trại.
Đó là trận đào thoát thất bại đầu tiên mà chúng tôi chứng kiến.
Một buổi sáng, chúng tôi gồm khoảng
14 anh em gồm y, nha, dược sĩ được chọn từ 9 trại về 1 nhà tráng xi măng duy nhất
của liên trại để thành lập bệnh xá. Nhà này nghe nói trước là nhà tù Sơn La của
thực dân Pháp, giam cầm các lãnh đạo cộng sản đầu thập niên 40. Cùng với 5 anh
em được chuyển về từ các trại khác, chúng tôi bắt đầu vào việc chuyển nhà giam
thành bệnh xá. Từ tay không, và không phải tay nghề, chúng tôi đã dựng nên được
một nơi mà chúng tôi hy vọng các anh em đồng cảnh tù bị bịnh sẽ tìm được sự
chăm sóc, hoặc ít nhứt là sự an ủi cảm thông, vì chúng tôi thừa biết phương tiện
y tế và thuốc men kể như là số không.
Quả vậy, sự hiện diện của chúng
tôi, những người áo trắng, giữa cảnh tù tội, đã đem lại cho anh em tù một nguồn
an ủi. Vì trong mấy tháng vừa qua, một số chúng tôi đã giúp nhiều đồng đội
trong cơn bệnh hoạn, ngay cả đã giải phẫu một, hai trường hợp cứu cấp khá thành
công, cán bộ, bộ đội cũng lén lút đến nhờ chúng tôi cứu chữa, hoặc xin thuốc
“con nhộng” (Aureomycine, Terramycine …). Phần nào chúng tôi cũng có được sự nể
nang âm thầm, nhưng vẫn phải chịu chung sự đối xử nhục nhã, thô bạo của kiếp
tù. Nhứt là trong những buổi học tập chính trị không thể thiếu.
4. Lên đồi: xin nhận nơi đây là quê hương
Anh em bịnh hoạn từ các trại được
chuyển về. Có gì đâu để chữa trị, nhưng ít nhất cũng không phải lao động.
Và cái chết đầu tiên xảy ra: đó
là một anh Trung Tá bị ung thư phổi giai đoạn cuối. Thật đau lòng. Tuyệt vọng
không phải vì không thuốc chữa, nhưng mộng ước được chết giữa người thân yêu xa
vời, mặc dù đã nhiều lần xin cứu xét.
Anh ra đi! Một kiếp người. Ai nấy
đều tủi cho số phận của anh và cũng của chính mình.
Anh thứ hai là một trung tá của
Quân đoàn II. Anh được chuyển đến để làm lao động cho bệnh xá. Anh rất yếu, bị
“xơ gan cổ chướng” (Cirrhosis), anh cùng tôi nằm gần bên nhau. Anh rất hiền
lành. Tôi không nghe anh than thở, xin hỏi thuốc men. Một tối, anh mửa ra máu
và ra đi. Tôi tiễn người bạn tôi lên đồi.
Nhưng có một anh khi ra đi đã gây
trong lòng tôi một nỗi buồn sâu đậm. Anh đến bịnh xá vì có vẻ khác thường: thầm
lặng và biếng ăn. Một đêm anh lên cơn làm náo động cả bịnh xá. Vệ binh ôm súng
lên cò la hoảng: “tù binh thoát trại”. Chúng tôi giữ yên được anh. Sáng ra, ban
quản giáo ra quyết định cách ly (nhốt riêng) anh. Anh hoàn toàn mất trí. Tôi
tình nguyện săn sóc anh. Tôi sống với anh 24/24 ở một chòi cách ly. Giữa mùa
đông giá lạnh, sống và chăm sóc một người lú lẫn nặng không phải dễ. Ban ngày
đút cho anh ăn chiếm cả thì giờ. Tối lại, anh thường lên cơn, vì bóng tối khiến
cho anh hoảng sợ, tôi phải canh anh suốt canh dài. Cả một sự kiên nhẫn, ân cần
giữ anh sống được qua ngày. Rồi anh yếu dần và ra đi sau một cơn động kinh. Tôi
chăm sóc anh như một người thân. Anh đi rồi, tôi buồn lắm.
Một buổi tối, cận Tết, chúng tôi
nhận lệnh đón một bệnh nặng từ trại 9 chuyển đến. Đến 4 giờ sáng anh mới được
võng đến (anh nằm trên võng do hai anh gánh đến). Anh bị bịnh viêm màng bụng
(peritonitis) đã 2 ngày, tình trạng rất nguy kịch. Cán bộ ra lệnh “phấn đấu giải
phẫu!”. Trại mộc gần bên “khẩn trương” đóng bàn giải phẫu. Anh V.T.A (cựu Thứ
trưởng Bộ Chiêu Hồi) được lệnh đi bệnh viện Phú Yên (cách 7-8 km) xin tiếp liệu
y cụ và dược phẩm cần thiết cho cuộc giải phẫu. Phải đến 2 giờ chiều anh mới về
trại. Anh kể, anh phải chờ, Bác sĩ bệnh viện đang bận giải phẫu. Và bác sĩ quả
thật đang mổ heo, vì ngày hôm nay là ngày bệnh viện được cấp 1 con heo. Bác sĩ
mổ thịt chia bán cho nhân viên. Anh A. mang về được một chai nước cất, 2 ống
ether, 2-3 cuộn băng. Thế thôi.
Chưa có ca giải phẫu nào mà có
nhiều bác sĩ, dược sĩ tham dự như vậy, và cũng không có cuộc giải phẫu nào mà y
dụng thô sơ đến như thế. Đánh ngủ bằng đổ ether qua một lớp bông gòn, bịt ngay
lỗ mũi. Cuộc giải phẫu rất đơn giản. Thành bụng lép xẹp, không mỡ, bị rạch mà
không chảy máu (có máu đâu mà chảy). Ổ bụng có mủ, một cọng rễ (có lẽ là rễ một
loại rau dại) đâm thủng thành ruột non mỏng dánh. Phải nương tay lắm mới khâu
được lỗ thủng. Và cũng vừa lúc bệnh nhân cựa quậy ra khỏi cơn mê vì đã hết
ether từ lâu. Thành bụng không khâu, sợ bịnh nhân chết vì quá yếu, chịu đau
không nổi.
Hai ngày sau, khi chúng tôi lao động
trên núi, có tiếng kẻng từ Bịnh xá gọi về. Qua khỏi cổng, chúng tôi nghe: “Gi.
đã địt được rồi!” Ai nấy đều mừng, đường ruột của anh Gi… đã hoạt động. Và
chúng tôi có được những ngày Tết ấm cúng bên cạnh đống củi khô cháy rực giữa
phòng, với sự bình phục của anh Gi., một Gi.., cựu Tiểu đoàn trưởng Biệt Động
Quân vui tính và rất tiếu.
Sau Tết riêng mình tôi bị “biên
chế”. Tôi người trẻ nhứt, bị tách rời để đổi đi Yên Bái. Anh em ái ngại nhìn
tôi trèo lên xe Molotova chở đầy bộ đội xa rời liên trại.
5. Bệnh viện Yên Bái, Đoàn 776
Vào khoảng trưa, tôi qua phà Yên
Bái, và được đến một ngọn đồi, mênh mang giữa bao ngọn đồi. Nơi đây tôi gặp lại
Ng. Tr. B., Trung tá công binh trước cùng nằm bên nhau ở trại tù Cần Thơ. Anh
và một nhóm anh em được điều động đến xây dựng một lều tạm để bắt đầu xây dựng
bịnh viện sử dụng chung cho trung đoàn 776 và tù cải tạo.
Lần hồi tụ tập thêm một nhóm anh
em hạ sĩ quan Cảnh sát Quốc gia, trước bị giam ở Phú Quốc, và 3 bác sĩ tuyển mộ
từ các trại Tháp Bà, Tuyên Quang, Nghĩa Lộ.
Chúng tôi lại xây dựng từ con số
không, với 2 bàn tay trắng. Đến khi vào sinh hoạt, chúng tôi có 1 khu cho chỉ
huy trại, khu cho cán bộ quản giáo, khu giải phẫu và điều trị cho đoàn 776, khu
dành cho bệnh nhân cải tạo, một nhà chờ xuất viện, một khu nhà bếp, một gian
nhà cho tù cải tạo phục vụ bệnh viện, và một khu cách ly.
Chúng tôi xây được một cái giếng
ciment, và những cầu xí 2 ngăn.
Không bao lâu, bệnh viện lác đác
nhận bịnh, bộ đội, cán bộ riêng, tù cải tạo riêng. Ba anh bạn bác sĩ được phân
phối phục vụ Bịnh viện, cùng với một số anh em già yếu. Tôi được sắp cùng với số
còn lại để lao động nặng. Ngoài ra, có một số được chia ra để làm mộc, đóng bàn
ghế, rương hòm cho cán bộ, và một số khác phụ trách trồng trọt tăng gia nuôi cả
trại.
Tôi ở đây từ đầu năm 1977 đến cuối
năm 1978. Nơi đây tôi chứng kiến vực thẳm của tù đầy và sự vinh quang của sự đổi
mới.
6. Hai bạn trong số bạn hữu lại
ra đi
Đúng vậy, thời buổi này là tệ hại
nhất. Thiếu ăn, rét lạnh, và dịch bệnh tàn phá chúng tôi không thương tiếc.
Không thăm nuôi, không tin tức
gia đình, lao động nặng, khí hậu khắc nghiệt đã quật ngã chúng tôi. Chúng tôi
là những xác không hồn, những sinh vật bò bốn chân, lê lết ba chân. Anh em
chúng tôi thi nhau ra đi. Riêng tại bệnh viện, những anh em may mắn được chuyển
đến, để rồi cũng tiếp tục ra đi. Làm gì được? thức ăn không có, lấy gì có thuốc
mà cầm cự. Chúng tôi hết đào huyệt rồi lại đào mồ. Chúng tôi liên tục vác các
anh em chúng tôi nằm trong 6 tấm ván mục sơ sài xuống đồi. Có lắm lần đường đồi
trơn trượt, chúng tôi chúi nhủi, hòm các anh rớt xuống, lăn đè lên chúng tôi.
Đâu đó có tiếng cầu nguyện: “Quý anh ơi, xin ra đi thanh thản, chớ bận bịu mà
ôm chúng tôi làm gì, tội chúng tôi lắm …”
Tôi nhớ rõ hai trường hợp.
*Anh Ph Q T, Trung tá giải ngũ.
Anh bị sơ gan cổ chướng. Bụng to
như trống chầu, da bụng mỏng tanh. Trong gói quà mà tôi nhận được lần duy nhất
từ khi ra Bắc, có một gói bột Bích Chi. Tôi đem tặng anh, anh không nhận, tôi
phải thuyết phục anh: “anh dùng đi, cái này rất tốt, vì theo phương pháp dưỡng sinh
Nhật Bản, bột gạo lức có rất nhiều chất bổ dưỡng trị được sơ gan”. Anh nhận,
nhưng anh biết rõ tình trạng sức khỏe của anh. Một đêm, anh ộc ra từng bụm máu.
Tôi ngồi bên anh, giữ anh ngồi để máu không tràn vào phổi, anh thì thào: Bác sĩ
cho tôi nằm. Anh nằm xuống, gương mặt xanh xao, nhưng tỉnh táo: Bác sĩ, tôi yên
tâm có bác sĩ bên cạnh, tôi chết không tiếc nuối. Bác sĩ có được thả về, nhớ
ghé nhà tôi báo tin dùm.
- Anh T, tôi xin hứa. Anh có muốn
tôi rửa tội cho anh không?
- Xin Bác sĩ giúp tôi.
- Tôi rửa tội cho anh Phêrô T,
Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Anh T lạnh dần và ra đi.
* Anh Trung Tá L V Ng, người hùng
Tống Lê Chân
Anh đến bịnh viện từ lúc bắt đầu.
Anh bị bướu ác tính vòm họng, di căn qua các hạch ở cổ và vòm họng, bóp nghẹt
khí quản và thực quản. Anh thở và ăn uống rất khó nhọc. Dáng anh rất thư sinh,
một thư sinh rất ốm đang vật lộn với căn bịnh ngặt nghèo. Sáng nào cũng vậy,
anh để cả tiếng đồng hồ để cố khạc nhổ đờm dãi ứ đọng trong cổ, để rồi dùng cả
buổi để cố gắng nuốt thử hạt bo bo. Nếu có hình ảnh kiên trường chiến đấu cùng
tử thần, thì đó là hình ảnh của anh. Hình ảnh thảm thương của cuộc chiến đấu vô
vọng trong thầm lặng anh dũng (gémir, crier, ce n’est que lâche!), anh kéo dài
được hơn một năm. Ngày cuối của anh là một đêm rất lạnh. Tôi ngồi cạnh anh, anh
rất yếu, khó khăn lắm mới rót được một hơi mỏng manh. Anh bảo: “chắc … tôi … chết”,
tôi ái ngại xoa bóp lưng anh, tôi không biết nói chi.
Chôn cất anh xong, nhớ lại câu trối
của anh: “chắc tôi chết!”, tôi mới hiểu sự quyết tâm của anh chống lại cái chết
để anh về với gia đình, cho đến hơi thở cuối cùng anh mới: “chắc tôi chết”. Anh
Ng ơi, người chiến sĩ già không bao giờ chết, họ chỉ thoáng qua thôi.
7- Những Tướng VNCH đã qua Bịnh
viện Yên Bái.
*Chuẩn tướng Ph H Th, Cục trưởng
cục Quân Y đến bịnh viện không phải để được điều trị, mà chỉ để tạm trú qua
đêm, để hôm sau xuôi về Nam, có lẽ để được phóng thích. Chúng tôi rất vui mừng,
“hồ hởi” vì ông là người đầu tiên thoát khỏi thiên đường Cộng sản.
* Thiếu tướng Đ V Qu, cựu Tư lệnh
Lực Lượng Đặc Biệt đến bịnh viện vì bị đau dạ dày. Là Tướng lãnh của Quân lực
VNCH, ông không bao giờ hạ mình tuân lịnh nội quy bịnh viện: nghiêm chỉnh đứng
chào cán bộ mỗi khi họ vào phòng. Bọn nhóc tì vô cùng tức giận, hoạnh họe chửi
rủa cộc cằn. Chúng liền trả ông về trại cũ. Có sao, ở đây cũng chẳng có thuốc
men, khác chi ở trại. Tôi được biết ông mất một thời gian sau đó, và cũng chẳng
có thuốc thang gì.
* Thiếu Tướng Ng X Tr, Bộ Tổng
Tham Mưu, được đưa đến bịnh viện trong cơn đau đớn tột cùng của Acute Glaucoma
Crisis (cơn đột phát tăng nhãn áp cấp tính). Ông đến không đúng lúc vì lúc đó bịnh
viện đang có một phái đoàn y tế cao cấp đến công tác, phổ biến và nâng cao
trình độ y-học cho cán bộ bịnh viện. Họ đem trường hợp của ông đễ giảng dạy và
phô trương. Họ đem ông vào phòng mổ, và biểu diễn tài giải phẫu, bằng mổ và móc
mắt ông. Đây là cách điều trị siêu hạng Xã hội chủ nghĩa. Từ nay một Tướng VNCH
nhờ được ta cứu, nhìn vinh quang Cách mạng với một con mắt đầy cảm phục!
* Y sĩ Thiếu Tướng V Ng H, cựu Cục
trưởng Cục Quân Y đến vì bị sa bẹn (hernia). Sợ trường hợp của Thiếu tướng Tr
tái diễn, anh bạn Bác sĩ Ph T L nài nỉ xin được làm phụ mổ. May phước, Tướng H
được tai qua nạn khỏi. Ông được xuất viện trả về trại cũ sau khi được mổ khá
bình thường.
* Một ông Tướng của Thống Tướng
Tưởng Giới Thạch, tình nguyện phục vụ cho Quân Lực VNCH được đưa đến bịnh viện
vì bị đái ra máu do nhiếp hộ tuyến bị sưng. Ông rất hề hà, nói không rành tiếng
Việt. Không thuốc men gì, trả về trại thôi.
8. Một tù cải tạo hào hùng- Một
bạn vàng
* Ở bên trại 4 Hoàng Liên Sơn có
một cải tạo viên rất nổi tiếng. Từ Nam ra Bắc, anh có cuộc sống rất hào hùng, dọc
ngang trời đất, trên đầu nào có ai. Anh sống rất hiên ngang, coi bọn cán bộ
không ra gì. Anh có cái hay là lúc nào anh cũng thoát khỏi đòn thù của bọn họ.
Đó là Tiểu Đoàn Trưởng Nhẩy Dù Ng L. Tôi được kể lại khi ở trại Sơn La, một
sáng ra ngoài lao động, đội đang đi thì có một thiếu phụ người Dao (đồng bào
Dao rất nổi tiếng vì cái đầu tóc rất bù xù, một năm mới tắm gội một lần) đi ngược
chiều. Anh L bỏ hàng ngũ và bước tỉnh bơ theo gót người đẹp và chung sống được
một tuần. Nhớ bạn bè, anh lại trở về trại, không nghe nói anh bị hình phạt ra
sao, chỉ biết một thời gian sau, anh được chuyển đến bịnh xá của các bạn đồng
nghiệp cũ của tôi, vì chảy máu hậu môn (trĩ). Các bạn đồng nghiệp tìm cách chuyển
anh về bịnh viện Yên Bái. Anh có đến gặp tôi và chuyển lời chào của các bạn cũ.
Một thời gian sau, anh xuất viện,
nằm ở Khu chờ đợi trại cũ đến lãnh về. Một bữa lúc 4:30 giờ sáng anh âm thầm ra
trại, đem theo quần áo bạn bè ra chợ Yên Bái đổi lấy thức ăn, bánh trái và ăn uống
suốt ngày thoải mái. Đến 11 giờ đêm anh lục tục đi về. Trong nháy mắt, anh
quăng phắt tất cả bánh trái cho anh em, vừa đúng vệ binh chạy đến bắt và còng
anh đi. Sáng sớm tôi ra giếng rửa mặt, gặp anh bị còng trói phơi người trong
đêm lạnh. Tôi nhìn anh đầy thán phục, anh nhìn tôi mỉm cười coi như trò chơi.
Anh thật là một hảo hán trong cõi lao tù.
* Đồng thời ở bịnh viện Yên Bái
có một anh rất được mến mộ, anh Đại Úy Thiết giáp V. anh có dáng như
môt ông Địa, tay chân, bụng, mặt no tròn, sưng phù. Cái miệng như lúc nào cũng
cười toe toét. Anh bị viêm thận vô niệu, mỗi ngày chỉ đái được vài giọt nước đỏ
lòm. Và cũng không có thuốc men gì cả. Trong gói quà tôi nhận được có ít viên
B1 nội hóa, tôi đem cho anh uống. Do sự trùng hợp ngẫu nhiên, trong đêm anh đi
đái được và đái rất nhiều. Sau 2 ngày, anh như ông già Michelin bị xì hơi thành
một anh hề Hardy ốm lòi xương. Chúng tôi trở thành đôi bạn đầy cảm thông. Chúng
tôi không nói gì với nhau nhiều, nhưng mỗi lần gặp nhau chúng tôi thấy vui
trong lòng.
9. Một sự hồi sinh
Thời gian ở bịnh viện Yên Bái là
thời gian khổ tâm vô cùng. Tôi tìm lại nguồn an ủi bằng cách ôn lại trong đầu,
những bài giảng đạo khi tôi còn học trường Lasan Taberd. Một ông Trung tá cho
tôi mượn đọc một cuốn sách Kinh mà ông dấu được. Hằng đêm tôi đọc kinh thầm và
suy gẫm lời Thánh kinh. Lần hồi trong tôi xâm nhập lòng thương xót và hoài niệm
về Tình Thương. Cái đói lạnh, cái khổ thể xác và tinh thần vẫn còn đó, nhưng
tôi cảm thấy dễ chịu hơn. Chung quanh tôi có rất nhiều gương của lòng tốt, tình
người. Bọn tôi không ai có thể thoát chết mà về được với gia đình nếu không có
sự giúp đỡ, chia xẻ, săn sóc và an ủi của anh em đồng cảnh tù. Về sau tôi được
chứng kiến nhiều cảnh cảm động của những cụ già, những thiếu phụ xanh xao ốm yếu,
những trẻ thơ gầy guộc ngơ ngác, lặn lội từ xa, gồng gánh những gói quà ra nuôi
và cứu chữa anh em chúng tôi. Chính tình yêu của gia đình đã vực chúng tôi khỏi
vực thẳm của tử thần.
Tôi cũng đã chứng kiến, trong cảnh
lao tù thiếu thốn, một số trong anh em chúng tôi đối xử đầy tình người với
chính những kẻ đã đối xử chúng tôi như kẻ thù, và chúng tôi cũng giúp đỡ được đồng
bào trong những trường hợp hy hữu. Ngược lại, không ít trường hợp chúng tôi
cũng nhận được lòng tốt của cán bộ, vệ binh và đồng bào, tuy là lén lút.
10. Một thời buổi đáng ghi nhớ: sưởi
ấm ở Quảng Ninh
Thuở đó, vào cuối năm 1978, có
tin đồn có vấn đề biên giới Việt-Trung. Đoàn 776 có dấu hiệu “biên chế”. Khu
dành cho Đoàn bị giải tán. Bên cải tạo thì có nhiều trường hợp chuyển trại. Còn
lại một phần nhỏ để thanh toán trại và 40 anh em bịnh nhân quá yếu không thể
chuyển trại được. Tôi được trại “bố trí” để lo cho 40 anh em này để chuyển tới
một địa điểm mới.
Lần đầu tiên trại mướn 2 chiếc xe
dân sự, loại Volswagen 14 chỗ ngồi, chở chúng tôi về Quảng Ninh, một trại tù
dân sự do Công an quản lý. Chúng tôi bị nhốt trong một phòng gạch có 2 hàng
băng xi măng, có từng trên bằng gỗ làm giường ngủ. Nơi đây có 2 cụ già rất yếu,
còn sót lại sau đợt chuyển trại của các viên chức cao cấp chế độ Cộng hòa,
trong đó có Đại tá V. V. C cựu Đô trưởng Saigon. Một cụ là chủ đò Thủ Thiêm, một
cụ là Khóm trưởng. Hai cụ vì bị thù oán cá nhân với bọn cách mạng 30 địa phương
mà bị đày ra đây.
Hằng ngày một trung úy công an với
một tù hình sự đến mở cửa sắt, điểm danh, cho tù hình sự đem nhiều bó tre đến để
cho chúng tôi đan rổ rá. Chiều đến, ông đến kiểm điểm thành quả lao động trong
ngày và nhốt chúng tôi lại vào “chuồng” và đương nhiên là không có thuốc men
cho mỗi ai. Ông chỉ định tôi chịu trách nhiệm anh em.
Những ngày đầu chúng tôi rất khốn
khổ, chia ra từng nhóm riêng rẽ, và có xảy ra hục hặc tranh chấp. Một bầu không
khí nặng nề khó chịu bao trùm chúng tôi, ai nấy nặng chĩu ưu tư, lo sợ. Cảnh thế
này, thì khó tránh được điều tệ hại nhứt.
Chúng tôi cùng quyết tâm với
nhau:
- Không có thuốc, thì phải cố gắng
tránh cho bịnh không trở nên trầm trọng.
- Không ăn uống đầy đủ, thì phải
tiết kiệm năng lượng.
Làm sao?
- Lao động tối thiểu.
- Ngủ nhiều để dưỡng sức, vì mất
ngủ sẽ hao mòn sức khỏe rất nhanh.
- Tránh buồn phiền ưu tư và gây gổ.
- Nâng cao tinh thần bằng vui ca,
và tự hào về đời sống “ngụy” của chúng mình.
Từ đó chúng tôi làm việc cầm chừng.
Nhiều anh sinh hoạt làm thơ, học đờn, sáng tác nhạc. Tối lại chúng tôi đờn, ca
hát nhạc vàng, kể nhau thành tích quá khứ, truyện chưởng và truyện tiếu lâm. Và
chúng tôi đi vào giấc ngủ lúc nào không hay. Chúng tôi có cuộc sống bất chấp kỷ
luật và nội qui trại (cùi rồi đâu sợ lở). Cũng may, ông trung úy và cả trại dường
như bỏ bê chúng tôi. Chúng tôi đâu có hay rằng chúng tôi được đoàn 776 chuyển đến
đây để tạm trú, trong những ngày tháng giá lạnh của mùa đông. Chúng tôi đã qua
được những ngày lạnh giá mùa Giáng Sinh và mùa Tết 78-79 đáng ghi nhớ nhất, vì
chúng tôi đã sống như con người của chúng tôi trước năm 75. Không một ai trong
chúng tôi bị trở bịnh và mệnh hệ.
11. Trại Mễ Nam Định, rửa tội và
về Nam
Ra xuân, vào tháng 4/79 chúng tôi
được trả về trại Nam Hà do công-an quản trị. Chúng tôi được đưa đến trại Mễ, trại
bịnh của hệ thống trại tù Nam Hà. Trại này ở ngoại ô Phủ Lý, Nam Định, cạnh một
nhánh của sông Mã. Trại có rất nhiều anh em cải tạo bệnh nặng từ các trại từ
Nam Hà chuyển đến. Hằng đêm tiếng còi hú của đoàn tàu xuôi nam làm không ít anh
em thức giấc đêm dài.
Tại đây chúng tôi bắt đầu được
gia đình ra thăm nuôi, và trại cũng bắt đầu kinh doanh làm tiền bằng cuối tuần
nấu phở bán cho cải tạo viên, hoặc trao đổi lén lút hàng hóa. Và cũng tại đây bắt
đầu có những đợt phóng thích. Mỗi lần thấy một số trong 40 anh em chúng tôi được
về xum họp cùng gia đình, trong tôi có một cảm giác mừng vui khó tả.
Đặc biệt nơi đây, cha H (tôi gọi
thân mật như vậy) linh mục dòng Đồng Công đã rửa tội cho tôi dưới sự chứng kiến
của một vài anh em Công Giáo.
Ban trật tự sắp xếp tôi làm công
tác y tế cho trại. Đó là mỗi sáng sớm khám những anh em khai bịnh để khỏi lao động.
Đã nói nơi đây là trại bịnh, nhưng ban điều hành lại vẫn bắt anh em lao động,
dù là chẳng có gì, nhưng mục đích vẫn là đày ải. Vì vậy anh em nào không muốn
lao động thì tôi cứ ghi thuận “miễn lao động”, cùng lắm thì tôi sẵn sàng bị đuổi,
trở về cùng với anh em lao động.
Rồi một ngày tôi được kêu lên trại
“làm việc”. Tôi bị bắt ký vào một tờ giấy khai tôi không bị hành hạ ở trong các
trại cải tạo.
Hôm sau, một mình tôi bị chuyển
trại. Tôi buồn và hoang mang, nhưng sau hàng rào, sao lại có một vài anh em vẫy
tay chào tôi vui vẻ?
Tôi được đưa vào trại A, Nam Hà
vào ngày lễ 2/9. Gặp lại một vài bạn các trại tù cũ, tôi được biết nơi bịnh xá
trại này đã đã quy tụ các anh em đồng nghiệp đã ở cùng chung trại ở Sơn La.
Sáng hôm sau, chúng tôi độ 14 người
được tập họp ở một khoảng sân trống. Nhìn lại toàn là anh em chúng tôi, đều là
những Y Nha Dược sĩ của các trại tù miền Bắc. Một cán bộ tuyên bố: “các anh được
tự do, chúng tôi sẽ đưa các anh ra ga Hàng Cỏ, Hà Nội. Chúng tôi sẽ trao các
anh vé tàu lửa và tiền lộ phí. Kể từ đây chúng tôi hết trách nhiệm về các anh”.
Chỉ có vậy, vào tù cũng không có
lệnh, ra tù chỉ là lời nói!
Tôi giữ lại một kỷ niệm với Thủ
đô Xã hội Chủ nghĩa bằng ăn một tô phở ở chợ Đồng Xuân. Tưởng là bát phở nổi
danh của Hà Nội 36 phố phường, nhè đâu là tô phở nhạt nhè xã hội chủ nghĩa mà
ngay cả tôi, một tù cải tạo đói khát cũng không thưởng thức nổi!
12. Từ tù nhỏ ra tù lớn
Sau 4 ngày 5 đêm thì chúng tôi
cũng về được đến Sài Gòn (à quên Hồ chí Minh) thân yêu. Ga Bình Triệu hơi vắng.
Chúng tôi xuống sau cùng một vài bạn được gia đình đón rước. Rồi tất cả cũng rời
đi, còn lại tôi và một anh bạn nha sĩ trẻ, không tiền, không thân nhân. Một bác
phu xích lô máy đồng ý chở chúng tôi về nhà, trả tiền sau.
Mà nhà nào? Nhà tôi quanh chợ Bà
Chiểu, gần rạp hát Cao Đồng Hưng nay còn đâu? Thôi thì về nhà ông bà già vợ ở
đâu đó ở Hóc Môn. Trong thơ duy nhất mà tôi nhận được, ba má nhà tôi bị đuổi ra
khỏi nhà ở trong nha Mục Súc, và có về Hóc Môn, ở ấp Cây Sộp làm trại nuôi heo.
Bác xích lô máy chở chúng tôi qua Hạnh Thông Tây, đến chợ Cầu. Nơi đây có vài
trại nuôi heo, và hỏi thăm trại của bác sĩ Tư. Và đây rồi, chúng tôi cũng tới
được: “Ba má ơi, con về đây!”
Tiếng chó sủa rân, một ánh đèn dầu
bật sáng. Em vợ tôi bật cửa chạy ra. Vào nhà, ba má già nua thấy rõ, nhìn hai
chúng tôi ngỡ ngàng và thương hại.
Hai tin đang chờ tôi.
- Má tôi và cả gia đình bên tôi
đã vượt biên và hiện đoàn tụ cùng một người chị và một người anh đã ra đi từ
4/75.
Ngoại tôi 84 tuổi cũng đi theo vượt
biên, bà thở hơi cuối cùng khi vừa đặt chân trên đảo Bidong. Bà đã hy sinh cho
con cháu được sống. Ngoại ơi, ngoại … ơi.
-Tin thứ nhì là nhà tôi và thằng
con trai 10 tuổi đang ở miền Bắc, tìm cách thăm nuôi tôi.
13. Một thiếu phụ, 2 con giữa
giữa bầy thú dữ
Nhà tôi là một trong 2 bác sĩ chế
độ cũ còn lại phục vụ cho Bịnh viện Long Xuyên. Nhà tôi phụ trách ngoại khoa và
giải phẫu, làm việc rất bận rộn và vất vả. Cùng với toàn thể nhân viên chế độ
cũ, nhà tôi được ban giám đốc và lãnh đạo đối xử như những công dân hạng hai
(second class citizen). Vào thời bao cấp, ngăn sông cấm chợ, nhà tôi và 2 con sống
rất chật vật và thiếu thốn như mọi người. Không được tin tức của tôi là nỗi đau
lòng luôn luôn canh cánh bên lòng. Nhà tôi cằn cỗi và tiều tụy trông thấy.
Đã vậy có lắm lần bọn cách mạng
tìm cách lại ve vãn nhà tôi. Có một anh chàng đến nói thẳng: “thằng chồng của
cô sẽ không bao giờ được thả về, có thế mới bắt cô ở lại phục vụ bịnh viện chớ.
Cô nên sớm lo liệu cho cô đi!”
Rồi có lần hắn đến dằn một cái cộp
cây súng lục trên mặt bàn và nói: nhiều khi lời nói không đem đến kết quả, thì
vật này sẽ làm được việc. Cũng may, hắn ta, có lẽ có quá nhiều thành tích, nên
bị chuyển công tác khỏi tỉnh.
Khi chuẩn bị vượt biên, má tôi
cũng kêu nhà tôi cùng đi, bảo rằng: “biết bao giờ thằng Bình mới được thả về!”
Nhà tôi vâng lời. Trùng vào ngày nhà tôi và 2 con đi theo chị tôi xuống rước để
xuống ghe trốn đi, thì nhận được lá thơ duy nhất của tôi gởi về từ Yên Bái. Nhà
tôi nẩy ra ý: nếu nhà đi vượt biên thì bao giờ tôi mới được ra tù? Vì vậy vào
giờ chót nhà tôi ở lại. Cũng may tối hôm đó, thằng con trai lên cơn sốt, nó bị
sung màng óc. Số nó còn hên, nên được cứu chữa kịp thời.
Có một bạn tôi, bác sĩ Đ.H.Đ làm ở
Châu Đốc. Anh bị sắp cho đi tù vì bị kết tội là cố tình mổ chết một cán bộ. Nhà
tôi cho anh hay và nói anh khai bịnh để chuyển từ Châu Đốc xuống Long Xuyên để
nhà tôi gấp rút chuyển anh về Bịnh Viện Bình Dân vì quá khả năng điều trị. Trước
khi đi anh kịp thời bảo nhà tôi “chị ráng lo cho thằng Bình, chớ không thì nó sẽ
chết ngoài Bắc”
Anh cho nhà tôi địa chỉ của bạn
cùng lớp, BS N.V.Tr, anh này là em Thứ trưởng Bộ Y Tế, Sáu Cương.
Nhà tôi liền lên gặp anh Tr và
Sáu Cương. Ông này nói thẳng “ai tôi cũng muốn xin về để phục vụ ngành y tế rất
thiếu bác sĩ, nhưng vừa lãnh xong, vừa về, thì hôm sau lại đi vượt biên tuốt luốt.
Coi kìa, Bác sĩ T.Ph.L cũng là bạn của Tr và chồng cô, tôi lãnh về xong thì
cũng vượt biên mất rồi. Vậy cô có bảo đảm với tôi rằng nếu được lãnh ra về, anh
Bình và cô có hứa sẽ ở lại phục vụ hay không?”
Nhà tôi trả lời ngay tức thì
“danh dự không cho phép tôi hứa những gì trong tương lai thời thế không cho tôi
giữ được.”
Quả là câu trả lời quá bộc trực của
dân miền Nam. Ông Sáu Cương cảm thông và đích thân viết một đơn xin lãnh chồng
và đưa cho nhà tôi ký.
Vừa về lại Long Xuyên thì có một
cô em đến cho nhà tôi hay; ‘em mới vừa thăm ba em ở tù ngoài Bắc vừa về. Ba em
cho biết Bác sĩ Bình đang ở cùng trại với ba em, và bác sĩ Bình bịnh rất nặng,
bà bác sĩ đi thăm mau đi, kẻo không kịp.”
Tin này loan ra mau, rất nhiều
người thân đến giúp nhà tôi chuẩn bị đồ đạc để gấp rút ra thăm tôi. Cùng lúc
trong bịnh viện có một bịnh nhân già bị thổ huyết nặng vì loét bao tử. Nhà tôi
mổ khẩn cấp. Hôm sau trước khi về Saigon để ra Bắc, nhà tôi vào bịnh viện hậu
phẫu thăm ông. Con ông cám ơn nhà tôi: “nghe nói bác sĩ sắp ra thăm ông ở ngoài
Bắc, tôi có thể giúp bác sĩ mua vé máy bay.” Thời buổi này mà đòi đi thăm chồng
bằng máy bay thì chuyện không tưởng, nhà tôi không chú ý lắm. Cho đến khi đến
ga xe lửa Saigon mua giấy, thì được bảo rằng phải đăng ký một tuần lễ mới có
vé, nhà tôi mới đến nhờ mua vé máy bay, và mua được 2 giấy cho cả hai mẹ con ra
Bắc.
Hôm sau nhà tôi và thằng con trai
được cô B, một bệnh nhân cũ đến đưa ra phi trường. Tại đây công an đòi phải xuất
trình thẻ công nhân vì trên vé máy bay ghi tên nhà tôi là công nhân công ty
xăng dầu đi công tác ở Hà Nội. Cô B liền bảo nhà tôi đứng chờ, cô chạy lên lầu
và trở xuống với một cán bộ. Ông này là cháu của cô và cũng là trưởng công an
phi trường. Ông can thiệp cho nhà tôi được lên phi cơ. Phi cơ rất dơ và chở
toán người ngoại quốc, có lẽ là người Liên Xô.
Đến phi trường Nội Bài cũng hơn 9
giờ tối. Phi trường rất tối và đe dọa. Trên xe ca về Hà Nội có 2 thanh niên trẻ
măng mặc quần áo bộ đội, 2 em giúp nhà tôi cất đồ đạc lên xe, vì quá nặng nề
cho mẹ con nhà tôi. Nhân tiện nhà tôi nhờ hai em xem 2 địa chỉ nhà tôi được giới
thiệu để tá túc trong thời gian thăm tôi, và coi nơi nào thích hợp nhứt.
Xem xong, hai em nói “địa chỉ thứ
nhất thì ở giữa Thủ đô, nhưng ở tận từng 5, không tiện, vì khi chị lên đến đó
và trở xuống thì đồ đạc bị chúng khuân đi mất rồi. Địa chỉ thứ hai thì ở ven đô
thành, tiện hơn và phải đi xe hơi”
Hai em phụ chất đồ lên xe lôi, một
loại cyclo như trong Nam, nhưng không có gối có đệm.
Nhà tôi gởi hai em một chút tiền
để dùng café, hai em tuyệt nhiên từ chối: “2 em giúp chị vì thấy đồ đạc quá nặng
nề, thế thôi”.
Nhà tôi đến nơi, thì đây là một
ngăn nhà rấ nhỏ, phía trước chưng bán tạp hóa, phía sau là một cái phản để làm
giường ngủ. Anh chủ nhà bảo: “cô là bạn của cô Minh nhờ chúng tôi giúp đỡ. Như
cô thấy chỗ chúng tôi quá chật. Thật tình nếu cô không ngại, chúng tôi sẽ đưa
cô đến một người bà con ở ngoại ô, cô có thể tá túc được?
Ông mới cho một em bé gái đạp xe
hướng dẫn bác xe lôi chở mẹ con nhà tôi đến Ngã Tư Sở (về sau chúng tôi cố tìm
đến để tạ ơn thì không thể tìm ra, Hà Nội biến đổi quá nhanh). Nơi đây là một
nhà xưa, có 2 chái. Chủ nhà vui vẻ cho trú ngụ. Nhà giữa thì có 2 phản cho 2 vợ
chồng và 2 con. Bà cụ của chủ nhà ở 1 chái, bên chái kia thì vợ chồng em chủ
nhà ở.
Hai đứa con bị đuổi đi sang qua ở
bên chái của vợ chồng người em, để chỗ cho mẹ con nhà tôi. Khoảng 1 giờ đêm,
nhà tôi nghe lục đục ở trước và tiếng xì xầm. Ông chủ nhà làm ca đêm vừa về.
Sáng ra anh chủ nhà cũng tên Tường trùng tên với nhà tôi bảo: “cô ra thăm chú ấy
ở Phủ Lý, đồ đạc nhiều quá, chuyên chở bất tiện, nếu cô không gấp thì chờ tôi
vào sở xin phép nghỉ, ngày mai tôi chở giúp cô vào thăm”.
Hôm sau ông cùng người em rể và một
người bạn chở vợ con tôi vào trại Mễ. Tới nơi, sau khi chờ đợi khá lâu, thì được
cho biết không có giấy phép thăm nuôi thì họ không cho thăm. Anh Tường phải năn
nỉ mãi thì mới được cho biết tôi không còn ở trại Mễ nữa và đã được chuyển vào
trại A Nam Hà.
Anh Tường bảo: trại A ở đường đi
Chi Nê, nhiều đồi dốc khó khăn, cô và cháu chịu khó ghì chặt, mình ráng vào cho
kịp giờ. Khổ nhọc lắm chúng tôi cũng đến được trại A, để được cho biết đã hết
giờ thăm nuôi. Anh Tường lại năn nỉ: “cô em tôi ra thăm chú ấy, tôi phải nghỉ
phép để đưa cô, xin đồng chí thông cảm cho cô thăm chú”.
Nhưng vô ích.
Nhà tôi quá mệt mỏi và thất vọng,
ngồi bẹp xuống đất, nón lá che đầu. Một công an trẻ đến khều trên nón lá, và
ngoắc nhà tôi đến một góc phòng. Tưởng là họ muốn làm tiền, nhà tôi đến và được
hỏi nhỏ: “phải nhà chị có tên Nguyễn Vĩnh Bình không? Anh ấy được thả rồi”.
Nhà tôi mừng quá cho anh Tường
hay, đồng thời nói với anh công an trẻ: cho tôi tặng lại anh các gói hàng này,
tôi không rinh về được”. Anh công an trẻ vội nói: “ấy chết, tôi mà nhận, bọn họ
biết tôi cho chị tin, thì tôi chết với họ”.
Chúng tôi lại trở về Hà Nội. Anh
Tường đưa nhà tôi lên Bộ Cải Tạo để xác nhận tin tôi được thả về. Nơi đây bảo
tuần sau trở lại sẽ có kết quả. Suốt thời gian chờ đợi, chị Tường đưa nhà tôi
đi quanh Hà Nội. Một hôm chị bảo: “hôm nay cô Tường và cháu đi thăm viếng lăng
Bác nhé”, nhà tôi chối từ, “Ậy, mình đi để được mua mỗi người một mẩu bánh mì
giá rẻ, cơ”.
À thì ra thế, người ta bỏ ra một ổ
bánh mì rẻ tiền để dựng được huyền thoại lòng sung kính của quần chúng với lãnh
tụ vĩ đại, và để tha hồ tuyên truyền với toàn dân thế giới.
Tuần lễ đã qua, anh Tường và nhà
tôi trở lại Bộ Cải tạo và được xác nhận tin tôi đã được thả.
Trên đường đi “đăng ký” vé máy bay,
anh Tường nói: “tôi khuyên, có chú ấy được về, cô chú sớm tìm đường ra nước
ngoài. Tôi thấy cháu kháu khỉnh tôi thương quá, cháu sẽ không được đi học,
không có một tương lai trong xã hội này”. Anh Tường khuyên thành thật. Về sau
chúng tôi được tin buồn, anh Tường và con trai bị bắt khi tìm đường vượt biên ở
Hải Phòng.
Trong xã hội độc tài, nhà tù mà
chúng tôi sống qua được là cũng nhờ vào lòng tốt, và tình người cả trong Nam lẫn
ngoài Bắc. Trong gian nan khốn khó, lòng nhân đạo được cảm nhận sâu xa và đầy đủ
nhứt. Chúng tôi là những nhân chứng sống.
14. Một chuyến ra đi
Về lại Saigon, chúng tôi quyết định,
tôi sẽ ở lại cùng với ba má nhà tôi, và nhà tôi tiếp tục làm việc ở Long Xuyên,
để tiện việc lo vượt biên.
Tháng 4/1980, chúng tôi được cố
Giám Mục (N.K.Ng) Long xuyên sắp xếp cho đi vượt biên cùng với tổ chức của ông
S. Ông này đã tổ chức thành công nhiều chuyến. Chuyến này là chuyến chót. Ông
đem hết gia đình trên 2 chiếc ghe chở khoảng 210 người. Chúng tôi ra đi vào cuối
tháng Tư. Ngày trước có giông bão cấp 4. Sáng ngày đi, trời còn âm u và mưa lất
phất. Chúng tôi chuyển xuống ghe lớn an toàn, và sau 2 ngày 2 đêm chúng tôi tới
Khlong Giai, tỉnh Thái ở sát biên giới Cao Miên. Chúng tôi vào trại tỵ nạn Liêm
Sỉnh.
Chúng tôi bị trở ngại khi đi phỏng
vấn với phái đoàn INS. Chị hai của nhà tôi hình dáng nhỏ thó rất khác với nhà
tôi, quá nhút nhát không chịu trả lời phỏng vấn viên, nên hồ sơ tỵ nạn bị xếp lại.
Cũng may, nhờ có một nhân viên tòa Đại sứ Mỹ ở BangKok chuyển gia đình chúng
tôi về trại Lumfuini ở Bankok. Tại đây, một cô tình nguyện viên làm thân với
nhà tôi, và dẫn ông chồng đến gặp chúng tôi. Ông này là người phụ trách toàn
chương trình định cư của Mỹ ở Thái Lan.
Ông đã giúp chúng tôi nhanh chóng hoàn tất thủ tục để định cư ở Mỹ. Lại một lần nữa, gia đình chúng tôi đón nhận lòng tốt và nhiều sự giúp đỡ trên đường đi tỵ nạn từ nhiều người, thân, lạ đều có đủ.
Đầu tháng giêng 1981, 11 giờ đêm,
phi cơ phản lực American Airway cất cánh, đem chúng tôi lên cao dần, nhìn qua
khung cửa, ánh đèn thành phố mờ dần, một quãng đời tôi cũng lùi vào quá khứ, một
nỗi buồn man mác tràn dâng trong lòng tôi.
Phi cơ càng lên cao, ánh trăng
bàng bạc soi sáng không trung, lòng tôi thầm cảm tạ ơn Chúa, và tri ân lòng tốt
và tình người mà nhiều người thân, bạn hữu và ân nhân đã tặng cho chúng tôi.
Một vài đám mây nhẹ nhàng trôi,
tôi tự nhủ cố gắng sống cho phải đạo để đáp ứng phần nào nghĩa tình mà tôi chắc
chắn rồi đây trong khoảng thời gian còn lại, nơi chân trời xa lạ chúng tôi sẽ
tiếp tục đón nhận.
Con tàu tiếp tục phi đạo vào
không gian vô tận, không gian của Tự Do và Tình Người.
Raleigh vào mùa Đông,
Nguyễn Vĩnh Bình
◾◾◾◾◾
Trí Nhân Media
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét