4/4/2022
Có lẽ, dính vào viết lách, nên
tôi thường nhận được những tác phẩm thơ văn gửi tặng qua bưu điện, hoặc E-mail.
Đó cũng là một niềm vui, sự an ủi không nhỏ cho những người cầm bút. Tuần vừa rồi,
có một bác từ Houston, Hoa Kỳ gửi cho tôi chùm thơ, và hỏi có biết Trạch Gầm
không. Vâng, tất nhiên là tôi đã bắt gặp tên tuổi nhà thơ này, khi đọc và nghiền
ngẫm Văn học miền Nam trước đây, và các tác giả sau 1975 ở hải ngoại.
Song mới chỉ đọc một vài đoạn
trích ở đâu đó của Trạch Gầm, và chưa cho tôi một ấn tượng, hay cảm xúc gì đó đặc
biệt. Tuy nhiên, khi nhận chùm thơ này, tôi đọc ngay, và đọc một mạch. Cái
tráng khí Trạch Gầm làm cho tôi hơi bị sửng sốt. Do vậy, tôi tìm đọc ông. Và quả
thực, thơ văn Trạch Gầm đã cho tôi một cảm xúc thật sâu sắc. Đọc ông, tôi chợt
liên tưởng đến nhà thơ Huỳnh Hữu Võ, và Nguyễn Bắc Sơn. Nếu ngôn ngữ thơ của những
người lính Huỳnh Hữu Võ, Nguyễn Bắc Sơn mang tính đặc trưng, thì ta có thể thấy
rõ cái nét độc đáo trong thi ca Trạch Gầm.
Nhà thơ Trạch Gầm tên thật là Nguyễn Đức Trạch, người Quảng Ngãi, nhưng sinh trưởng tại Saigon. Ông xuất thân trong một gia đình truyền thống văn chương, bố là nhà báo kỳ cựu Hồng Tiêu Nguyễn Đức Huy và mẹ là nhà văn Bà Tùng Long. Cho nên, Trạch Gầm cũng như những người em của mình (nhà văn Nguyễn Đức Lập, nhà văn Nguyễn Đông Thức) không chỉ ở văn chương chữ nghĩa, mà còn chịu ảnh hưởng rất sâu sắc tư tưởng từ gia đình.
Tuy nhiên, ông đến với thơ văn, đi vào cuộc chiến khá muộn. Năm 1965, tròn 23 tuổi Trạch Gầm mới nhập ngũ khóa 21 Trường sĩ quan Thủ Đức, và có mười năm lăn lộn nơi chiến trường. Thời gian này, ông bắt đầu viết lách, và đăng tải rải rác trên các báo trong và ngoài quân đội.
Nhưng phải đến sau tháng 4-1975, với gần mười năm cải tạo tù đày, cùng những năm tháng cư ngụ nơi đất khách Hoa Kỳ, cây bút Trạch Gầm mới như có ma lực vậy. Viết không nhiều, song những tác phẩm của ông đã đánh đúng vào tâm lý, chạm đến được tận cùng nỗi đau, sự cảm thông của con người, nhất là đối với những người lính đã trải qua cuộc chiến tranh, tù tội. Vì vậy, tự sự là một trong những thủ pháp nghệ thuật làm nên những trang viết ấy của Trạch Gầm.
Cho đến nay, Trạch Gầm mới cho in ấn, xuất bản ba tập thơ: Vụn Vặt,
Ráng Chịu, Dấu Giày Chinh Chiến, cùng hai tập truyện: Bên Lề Cuộc Chiến, Chôn Lầm
Huyệt Nhớ, và tuyển tập Nhốt Vòng Nhớ Thương. Do vậy, ta có thể thấy, tuy là một
nhà thơ, nhưng văn xuôi đã góp phần không nhỏ làm nên tên tuổi Trạch Gầm.
● Chiến trường, nơi ấm tình đồng đội.
Cũng như Phan Nhật Nam, hay Trần Hoài Thư, ngay từ những ngày đầu cầm súng Trạch Gầm đã nhận ra: “Cái khốn nạn của thế hệ chúng tôi, quê hương tôi, vận mệnh không nằm trong đôi tay của chúng tôi. Vì bọn ngoại bang đã đặt cả dân tộc của chúng ta lên bàn cân buôn bán!”. Tuy mang nặng cái tư tưởng như vậy, nhưng mười năm cầm súng, Trạch Gầm không hề có sự mâu thuẫn, giao động trên đầu súng như nhà thơ, người lính Nguyễn Bắc Sơn. Với ông có sự phân biệt rạch ròi trách nhiệm của người lính. Do vậy đi vào cõi tử sinh, ta vẫn thấy cái hào khí Trạch Gầm, dường như có một chút ngang tàng:
Khi đi sâu vào đọc ông, tôi hơi bị bất ngờ và xúc động. Sự
rung động ấy không hẳn vì tài năng miêu tả, trần thuật, mà bởi nghệ thuật đưa
khẩu ngữ vào thơ văn của Trạch Gầm. Ngoài sự dân dã đó, ta còn thấy thơ Trạch Gầm
đều có nhân vật, với những đại từ nhân xưng được cho là bỗ bã, một điều tối kỵ
trong thơ văn từ trước đến nay.
Tuy nhiên, đọc ông dường như cái bỗ bã ấy đã trở
nên nhẹ nhàng và gắn kết thân mật hơn, kể cả khi viết cho người tình:
Vâng, âu đó cũng là tài năng, sự độc đáo trong thi ca Trạch Gầm vậy. Và cái sự dân dã, độc đáo ấy, đã gọi tên, đi thẳng vào cái tàn khốc của chiến tranh, nỗi đau của con người:
Song nó cũng đã làm dịu ấm lại tình bạn bè, đồng
đội nơi binh đao, khói lửa ấy:
Nếu chưa đọc Lữ Quỳnh, hay Phạm
Tín An Ninh, hoặc Thảo Trường…thì có lẽ, tôi không thể tưởng tượng ra được cái
bi thương của người lính khi đọc: Trở lại Bình Long của Trạch Gầm. Có thể nói,
đây là một bài thơ hay của Trạch Gầm, và cũng là một trong những bài thơ hay nhất
viết về chiến tranh, thân phận người lính của nền Văn học Việt Nam. Sự tàn khốc
mang tính chân thực ấy, đọc nó, tôi phải sởn gai ốc, khi ngồi viết những dòng
chữ này:
Giữa chiến trường khốc liệt, và
gian nan là thế, song hình ảnh người lính, lòng nhân đạo vẫn hiện lên đậm nét
trong thơ Trạch Gầm. Với ông, nỗi đau, sự mất mát xóa nhòa gianh giới bạn và
thù:
Và dưới bom rơi, đạn nổ không làm cho người lính Trạch Gầm run sợ, vậy mà cái
tình người, tình đồng loại đã khiến ông phải rưng rưng đến nghẹn ngào:
Nếu “Trở lại Bình Long“ ngoài sự
tàn khốc, trùm lên tất cả là lòng nhân bản, tình đồng loại, thì đến với “Trở lại
Long Khánh“ Trạch Gầm đi sâu vào cái tình đồng đội, cùng chia sẻ nỗi đau mất
mát, với sự ngậm ngùi, cảm thông:
Và nỗi vui, buồn lo âu ấy, luôn ám ảnh trong lòng
thi nhân. Với tâm trạng như vậy, song những câu thơ có tính khẩu ngữ dung dị vẫn
ấm tình người lính ở nơi địa đầu sinh tử:
Có thể nói, Trở lại Long Khánh không phải
là bài thơ hay nhất của Trạch Gầm, nhưng có những câu thơ (mang) hình tượng rất
đẹp:
Trạch Gầm đã bộc lộ và gửi cảm xúc của mình vào nhiều thể loại, từ lục bát, ngũ ngôn cho đến thơ tự do…Nhưng phải nói, những bài thơ hay của ông đều thuộc thể bát ngôn. Một thể thơ không quá gò bó bởi niêm luật.
Và“Đêm Giao Thừa Của Lính” là một bài thơ như vậy. Với
tôi, đây là bài thơ tiêu biểu nhất về tâm trạng của người lính nơi trận tiền giữa
giờ phút thiêng liêng (của đêm giao thừa). Bài thơ như một một lời an ủi, tự ru
lòng mình vậy. Giữa núi rừng sâu thẳm, trong cái phóng khoáng, dường như có một
chút ngang tàng, dường như ta vẫn thấy được cái an nhiên tự tại của người lính.
Và cái giây phút thiêng liêng ấy, họ vẫn muốn sum họp, sẻ chia cùng đồng đội những
người đã nằm xuống:
Tôi đã đọc khá nhiều thơ văn viết về chiến tranh, song thành thật
mà nói, rất ít người viết về đồng đội sâu đậm như Trạch Gầm:
Có thể nói, thơ Trạch Gầm ghim được
vào lòng người đọc như vậy, nhất là những người lính, bởi tính chân thực. Mỗi địa
danh, mỗi trận đánh đều mang dấu ấn của lịch sử. Bạn bè, đồng đội ông là những
con người thực, tên tuổi thực. Mỗi câu thơ như một mũi khoan xoáy vào lòng người
vậy:
Cho nên, sống hay chết đều để lại những nỗi đau, với kỷ niệm buồn sau chiến trận.
Và Trạch Gầm như một người thư ký, cần mẫn ghi lại bằng thơ. Âu đó cũng là sự
giải tỏa nỗi lòng Trạch Gầm, và cho cả đồng đội ông.
● Những ngày tháng tư – với linh hồn
rách nát.
Và tháng tư đến, cái nhận thức, tư tưởng ngay ban đầu của Trạch Gầm đã trở thành hiện thực. Thân phận đất nước nói chung, và người lính nói riêng đã được đặt lên bàn, để cân đong đo đếm. Người lính ấy, không thể tự quyết số phận của mình trên chiến trường. Chỉ với hình ảnh một ông tướng thăm dân và thị sát, rồi không bao giờ trở lại, Trạch Gầm đã cho ta thấy rõ cái bản chất của cuộc chiến này. Sự phũ phàng, xảo trá và lưu manh đó đã đưa đất nước, con người vào đường cùng, ngõ cụt.
Và Nhật ký tháng Tư là một
bài thơ như vậy của Trạch Gầm:
Có thể nói, Nhật ký tháng Tư là một bài thơ điển hình, chân thực nhất của Trạch Gầm về những ngày tháng tang thương này. Lời thơ tự sự, với những hình ảnh so sánh: mất/ còn, làm cho người đọc phải nghẹn ngào, xót xa:
Vậy là, người lính Trạch Gầm vẫn
còn sống để trở về, nhưng linh hồn dường như đã mất. Sự chán chường, và vô
nghĩa ấy, buộc ông trải vào những trang thơ. Lời trước nghĩa trang, tuy không
phải là bài thơ hay của Trạch Gầm, song nó tiêu biểu cho cái diễn biến tâm lý
chung (rất sâu sắc, chân thực) của người lính thất trận ở những ngày này. Vẫn
biện pháp tu từ so sánh, đoạn trích dưới đây cho ta thấy rõ điều đó:
Và sau cuộc chiến, tù cải tạo là
con đường duy nhất của người lính. Lững thững vô tù mà Trạch Gầm vẫn không thể
tin miền Nam đã sụp đổ:
Cái phũ phàng, và bất ngờ ấy, dường như không chỉ riêng ở người lính Trạch Gầm, mà ta còn bắt gặp trên trang văn Phan Nhật Nam, và cả Trần Hoài Thư nữa. Họ đều nghĩ: “hết chiến tranh anh sẽ về Nha Trang dạy học và cưới em“ (Trần Hoài Thư).
Nhưng buồn thay, các bác cùng dắt tay nhau vào rọ cả. Ở nơi chuồng
người Hoàng Liên Sơn với những điều trớ trêu, và nghịch lý đó, chẳng biết các
bác có gột rửa được tâm hồn hay không? Nhưng đọc những câu thơ khí chất Trạch Gầm
thấy người hơi rung rinh, sảng khoái:
Có thể nói, tù đày, chết chóc chưa hẳn là điều đáng sợ, mà nỗi đau tinh thần mới là sự ám ảnh, tang thương nhất đối với người lính thất trận. Và nỗi đau ấy, vượt ra khỏi những trang thơ, buộc Trạch Gầm phải đến với văn xuôi, truyện ngắn.
Tôi đã tìm đọc một số truyện của ông trên internet, nhưng có thể nói, Cháy giữa mùa xuân là truyện ngắn độc đáo, hay nhất của Trạch Gầm. Độc đáo bởi, lần đầu tôi được đọc một tù cải tạo viết về gái gú bán mua rất sinh động và chân thực ở ngay chốn lao tù. Và ở đó cũng cho tôi thấy cái tình người vẫn còn sót lại ở nơi địa ngục trần gian này: “Tôi thì không như mấy thằng trong trại, chúng chỉ biết coi tù, rắc rối bỏ mẹ xử lý chẳng có chút chi là tình người…Với tôi ông muốn nói gì cũng được tất, chuyện xưa chuyện nay, hát nhạc vàng, hát vọng cổ…ngồi trước mặt tôi các ông không nên chửi đảng, thế thôi“.
Với từ ngữ, lời thoại dân dã, mộc mạc, cùng thủ pháp châm biếm, Trạch Gầm
cho người đọc tiếng cười thật chua chát. Trích đoạn lời thoại giữa nữ xã đội
trưởng giám sát với những người tù phá đá nung vôi dưới đây, sẽ cho ta thấy rõ
điều đó:
“Trong 6 thằng bọn anh thật mà
nói chẳng có thằng nào còn giữ được cái đồng hồ. Nếu trong trại còn có đứa nào
yếm được thì anh sẽ cố kiếm mua cho em. Có điều em bảo gì gì cũng được anh lại
không hiểu gì cả…
Nở cười:
– Gì gì em muốn nói ở đây là chất
tươi đó mà, nói toẹt ra là gái đấy.
Điệp chận lời:
– Xã hội chủ nghĩa mà còn lưu
hành cái món nầy sao? Anh cứ nghĩ là được giáo dục đến nơi đến chốn hết rồi chứ.
-– Ôi! cái nghề có từ đời thượng
cổ, càng đói rách thì càng sanh mầm như nấm gặp mưa. Nói cho anh rõ ngoài Yên
Bái đánh một quả năm tì, trong làng mộc mạc, giá hữu nghị chỉ có ba tì…các anh,
anh nào cũng sức trai hừng hực. Những ngày mà bọn tôi còn trong rừng núi Trường
Sơn, nhiều đồng chí nam bị sốt ác tính vật còn như tàu lá, thế mà thấy các đồng
chí nữ tắm suối vẫn ngẩng đầu lên xin tí tình“
Đọc Cháy giữa mùa Xuân, ta thấy rất
nhiều tình tiết đan xen tạo nên bức tranh đa màu. Ở đó, ta không chỉ thấy được
nỗi thống khổ của những tù nhân, mà còn thấy được cái bi kịch của cả một xã hội.
Sự tàn nhẫn, mông muội của cường quyền đẩy con người đến đường cùng không lối
thoát. Và với hình thức hư cấu (thằng bé hóa thành tinh) Trạch Gầm muốn nhắc đến
một điều, quả báo là có thực chăng:
“từ cái lò này, trước khi các anh
ra ba năm, có một đứa bé mới sanh bị quăng cháy trong lò. Con bé chồng đi bộ đội
biệt tăm biệt tích, hiu hiu cùng bố chồng đơn chiếc tự dưng có bầu. Con bé bị
hành lên xách xuống bởi ủy ban nhân dân, bởi hội phụ nữ toàn dân góa bụa, cứ muốn
phăng cho biết ai là tác giả. Con bé cắn răng cho đến ngày sanh. Thằng bé vô tội
cháy giữa mùa xuân. Con bé vào tù, người cha chồng phát điên, cửa lò vôi bị
khép lại. Dân làng chẳng có người nào dám mò đến đây vì họ cho rằng thằng bé
thành tinh mỗi năm vật vài tay già trong làng để trả thù cho mẹ nó. Chuyện đấy,
tôi không hiểu tại sao các anh không bị thằng bé hành, có thể các anh là tù, là
cái tận cùng của mạng số.“
● Con phố tha phương- lặng lẽ- u
sầu.
“Con phố tha phương- lặng lẽ- u sầu“
có lẽ là câu thơ buồn nhất của Trạch Gầm, khi đặt chân tới Mỹ. Và tôi cũng mượn
nó để (làm tiêu đề) viết cho phần kết về ông. Nỗi u buồn đó, phải chăng nhà thơ
không, hay chưa tìm được tiếng nói chung, một tâm hồn đồng cảm:
Thật vậy, trước thực trạng lòng người chia năm xẻ bảy ngay trên mảnh đất
tự do này, với phép hoán dụ, Trạch Gầm đã gửi cái chán chường ấy vào thi phẩm:
Nói với bạn bè. Có thể nói, đây là một trong những bài thơ hay, và chân thực nhất
của Trạch Gầm viết trong thời gian này. Nó đã được nhạc sĩ Nguyễn Văn Thành phổ
thành ca khúc cùng tên:
Với Trạch Gầm, thân phận người
lính nơi chiến trường, hay nơi núi rừng Hoàng Liên Sơn, hoặc ở nước Mỹ tha
phương thì vẫn áo đời tơi tả. Những câu hỏi tu từ trong thơ, dường như Trạch Gầm
không tìm lời giải đáp. Song như “có nụ buồn” quặn xoắn trong lòng người vậy:
Với thực trạng (thiên hạ tranh
nhau quyền yêu nước) ấy, Trạch Gầm chỉ còn biết gửi hồn vào những trang thơ, rồi
mở ra một lối đi riêng cho mình. Do vậy, ta có thể thấy, tình yêu quê hương và
nỗi nhớ đồng đội vẫn thường trực trong ông:
Tuy viết không nhiều, nhưng mảng thơ thời sự xã hội góp phần không nhỏ làm nên cái chất độc đáo Trạch Gầm. Với thân đất khách, hồn nơi quê nhà, cho nên một sự kiện nhỏ xảy ra ở quê hương cũng làm cho ông day dứt.
Lời cho Lê Thị Công Nhân là một bài thơ, hay một lời
cảm phục, một sự phẫn nộ của Trạch Gầm, khi nghe tin cô bị bắt. Có thể nói, thơ
thế sự của Trạch Gầm luôn đứng về phía lẽ phải, mang hơi ấm của sự đồng cảm đến
với những con người cô đơn, bị trị. Tự do dân chủ là tư tưởng xuyên suốt trang
viết của ông:
Và ngòi bút ông chọc thẳng
vào ung nhọt của xã hội, nhất là những kẻ bán rẻ Tổ quốc và lương tâm. Lời thơ
dồn nén uất ức, nhưng thẳng thắn, với khẩu ngữ mang giọng điệu hài hước làm cho
người đọc phải bật ra tiếng cười chua xót, và căm phẫn:
Dù sức đã cùng, lực đã kiệt,
và sống xa cả chục ngàn cây số, người lính Trạch Gầm vẫn nặng lòng với đất, quê
hương. Do vậy, không chỉ dừng ở đó, Trạch Gầm truy vấn đến cùng trách nhiệm của
người lính mang danh bộ đội nhân dân, mỗi khi đất nước có sóng gió, hiểm nguy:
Có thể nói, thơ Trạch Gầm chân thực,
và mộc mạc, dễ hiểu, không kén người đọc. Cho nên, từ tầng lớp trí thức cho đến
bình dân đều đồng cảm yêu mến văn thơ của ông. Trên một trăm bài thơ của Trạch
Gầm đã được mười sáu nhạc sỹ phổ nhạc, đã minh chứng cho điều đó. Mỗi bài thơ của
ông là một trang nhật ký, một trang sử, hay một hoài niệm về một thời chinh chiến,
và tù đày. Cũng như Phan Nhật Nam, hay Phạm Tín An Ninh…tôi nghĩ, cả cuộc đời
Trạch Gầm không thể bước ra khỏi cuộc chiến này.
Tôi chưa từng gặp gỡ, và quen biết
Trạch Gầm, đọc và viết về ông trong thời gian trên chục ngày, sau giờ làm việc.
Do vậy, chắc chắn không thể đào bới hết, và còn nhiều sai sót về văn thơ Trạch
Gầm. Nhân tháng Tư, tôi viết bài này như một lời tri ân đến bậc tiền bối vậy.
Leipzig ngày 4-4-2022
(Trang Văn Chương Miền Nam)
◾◾◾◾◾
Trí Nhân Media
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét