Lưu Hồng Phúc
22/2/2022
Hình: (bức tường đá đen ở Nghĩa Trang Arlington)
LGT: Bài viết vô cùng cảm động
sau đây của quả phụ một sĩ quan QLVNCH, kể về một mối tình có thật thời chiến
tranh Việt Nam giữa chị ruột của tác giả với một người lính Mỹ, đã hy sinh
trong cuộc chiến. Hơn ba mươi năm sau, tưởng nhớ công ơn người anh rể đã hy sinh
cho quê hương, tác giả ghé thăm bức tường đá đen ghi danh 58,000 tử sĩ Mỹ trong
chiến tranh Việt Nam… Không ngờ, tại đây, bà tình cờ gặp bố mẹ của người anh rể
cũng đến viếng thăm con, và qua câu chuyện, tác giả đã giúp ông bà nội người
Mỹ tìm thấy người con dâu Việt và đứa cháu nội chưa từng biết mặt…. Trong niềm
bồi hồi xúc động đến rưng rưng lệ khi đọc, chắc chắn quý độc giả không thể
không biết ơn những người lính VNCH, Mỹ, Úc… đã đổ máu bảo vệ Miền Nam trước
làn sóng xâm lăng của cộng sản trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam….
Tháng tư thường cho tôi nhiều nỗi buồn và nhớ. Buồn vì từ đó ta làm thân mất nước không nhà và nhớ vì trước đó có quá nhiều kỷ niệm không bao giờ còn tìm lại được. Giữa lúc lòng tôi đang chơi vơi thì chị bạn rủ theo đoàn người về thủ đô Hoa thịnh Đốn để coi hoa Anh Đào nở và nhất là đi thăm bức tường đá đen, ghi lại tên tuổi của hơn năm mươi tám ngàn tử sĩ Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, đã bỏ mình để bảo vệ tự do của miền Nam xưa. Với tôi đó là một dịp may đến thật tình cờ.
Tôi vẫn thường nghe nói về vườn
hoa Anh Đào mà vương quốc Nhật tặng cho nhân dân Mỹ khi xưa ở thủ đô, đang khoe
sắc mỗi độ xuân về. Thật như thỏa tấm lòng vì cả hai, được nhìn những cành hoa
mà cả một thời tuổi trẻ ước mơ và đến tận nơi bức tường đá đen để tìm tên một
người đã là điều tôi mong muốn từ lâu. Thế nên tôi thu xếp hành trang vội vã đi
ngay. Hơn hai mươi bốn giờ ngồi trên xe theo nhóm người du ngoạn đã đưa tôi từ
miền Texas xa xôi về tới thủ đô. Con đường Ohio chạy dọc theo bờ sông Potomac
hoa Anh đào đã nở rực rỡ một màu hồng phơn phớt trắng. Hơi lạnh đầy trong không
khí của một mùa đông dài còn sót lại, vương qua mùa xuân, đọng trên những cánh
hoa dọc theo con đường Constitution dẫn đến bức tường đá đen nằm kia, trầm mặc
u buồn.
Tháng Tư, hoa đã nở từ lâu. Xác
hoa rơi lả tả làm hồng cả một khoảng không gian quanh những con đường chạy dọc
theo công viên. Hoa Anh Đào thật đây rồi, những cánh hoa mà tươi xinh ngày xưa
tôi chỉ được nhìn thấy trong phim ảnh rồi thầm cảm mến những kiếm sĩ của xứ Phù
tang, cô đơn vung đường gươm, để hoa rơi trong tuyết lạnh, thì hôm nay đang rực
rỡ khoe sắc trước mắt tôi đây. Tôi tách ra khỏi nhóm người đi bộ một mình dưới
những tàn cây. Tôi vẫn thích đưọc đi một mình để nhớ về những ngày tháng đã dần
qua.
Ngày xưa chưa mất miền Nam gia
đình tôi đã có một cuộc sống ấm êm hạnh phúc. Chồng tôi, một người lính trận, mỗi
lần về phép thường hay cùng đi với một quân nhân Mỹ, cố vấn trong đơn vị. Hai
người cùng làm việc, cùng chung sở thích và ý nguyện nên rất thân nhau.
Thuở ấy tôi không biết nhiều về đất
Mỹ như bây giờ nhưng qua lời anh diễn tả, cũng đủ hiểu rằng người lính Mỹ ấy đến
từ một vùng quê xa xôi miền trung bắc Hoa Kỳ. Ngoài cái vẻ bên ngoài rất tài tử,
râu ria xồm xoàm vì những ngày tháng lăn lóc trong chiến trận chưa kịp cắt tiả
thì Mike Wright thật nhân hậu và hiền lành. Tôi cũng ngạc nhiên với tấm lòng rộng
lượng hồn nhiên của người Mỹ. Họ đã mang biết bao nhiêu tài sản, cả sinh mạng
khi đến giúp đất nước tôi, hòa nhập vào đời sống người dân bản xứ, tươi vui
trong cuộc sống. Bởi thế, anh chàng râu ria xồm xoàm Mike chiếm được cảm tình của
gia đình, nhất là bà chị lớn chưa chồng của chúng tôi ngay. Chuyện tình của một
người lính viễn chinh từ một đất nước xa xôi với người con gái Việt Nam còn
nguyên nề nếp gia phong diễn ra thật êm đềm hạnh phúc với một đám cưới đậm
chất phương Đông. Chị tôi khăn đóng, áo dài bên cạnh anh Mike cũng áo dài khăn
đóng. Trông họ cũng thật vừa đôi.
Từ đó tôi không còn cô đơn trông
ngóng hằng đêm mà có cả chị tôi là kẻ đồng tình, đồng cảnh. Chúng tôi đã có những
ngày đợi chờ trong lo lắng, đã có những ngày đoàn viên trong hạnh phúc. Những
tháng tươi vui của một thời son trẻ tưởng như không bao giờ dứt cho đến một
ngày kia. Tôi không quên được cái ngày người chỉ huy hậu cứ tiểu đoàn đích thân
đến báo cho tôi biết là chồng tôi và đơn vị của chàng không về nữa. Cả người cố
vấn Mỹ dễ thương đang là anh rể của tôi cũng cùng chung số phận. Một đơn vị oai
hùng, thiện chiến, tưởng như là không bao giờ thua trận đã nằm lại đâu đó trên
vùng đất Hạ Lào của mùa hè khói lửa. Tôi và người chị, ngày ấy thực sự bị cuốn
vào những cơn ác mộng, nhất là khi chị tôi biết được rằng mình vừa khó ở, chưa
thông báo cho Mike biết về đứa con vừa thành hình trong bụng chị
Sau khi miền Nam lọt vào tay phương Bắc là một quãng đời địa ngục trần gian đến với chúng tôi. Nhất là chị với đứa con lai đã hứng chịu trăm đắng ngàn cay bởi vì sự dè bỉu, khinh khi cũng như phân biệt đối xử của người cai trị mới. Chị tôi bị hành hạ, bị lăng nhục, bị đe dọa đưa vào cái trại gọi là phục hồi nhân phẩm mà thực chất là tước đoạt hết nhân phẩm con người. Chịu đựng bao nhiêu đắng cay khổ sở nhưng chị tôi vẫn cắn răng làm việc nuôi dạy con khôn lớn nên người.
Có một điều làm tôi lạ lùng
là tình yêu của chị dành cho anh hơn hẳn những thường tình. Chị luôn nhắc tới
anh với những lời yêu thương trang trọng, với sự bùi ngùi thương tiếc của một
người góa phụ tưởng nhớ thương chồng. Chị không đòi hỏi gì ở anh cũng như đất
nước anh. Khi chương trình tái định cư những người con lai bắt đầu, tôi cũng tưởng
chị vui sướng lắm. Nhưng không, chị từ chối ra đi chỉ vì còn nặng lòng với mảnh
đất được sinh ra và đứa cháu tôi cũng vui vẻ vâng theo lời mẹ. Tôi không giống
và cũng không chịu đựng được như chị. Tôi chọn ra đi để đưa các con tôi về với
tự do. Khi con thuyền mong manh đưa chúng tôi ra biển, tôi đã thầm cầu nguyện
ơn trên cho chúng tôi vượt sóng được bình an. Tôi đã chọn tự do hay là chết và
chân thành cầu xin đó là một sự chọn lựa đúng đắn và may mắn nhất trong đời….
Cứ mãi suy nghĩ và đi theo con đường hoa, tôi đến trước bức tường đá đen tự bao giờ. Con đường dần xuống thấp để những dòng tên trắng hiện ra. Một cặp vợ chồng người Mỹ trắng đã già lắm, run rẩy dắt tay nhau bước lên bực thang. Mắt người đàn bà còn ướt đỏ. Tôi đoán rằng bà vừa mới khóc.
Gặp nhau trên bực thang đầu tiên,
tôi vui vẻ chào hai người rồi hỏi lớn:
– Ông bà từ đâu tới.
– Chúng tôi từ Ohio, còn cô.
– Thưa ông bà tôi từ Texas.
Người đàn ông râu dài nhưng cắt tỉa
gọn gàng, dáng vẻ hiền từ thân thiện. Ông ta mỉm cười hỏi lại.
– Tôi muốn hỏi cô người nước nào.
Phi, Tàu, Nhật hay Thái lan.
– Thưa ông tôi là người Việt Nam.
Bỗng nhiên tôi thấy gương mặt người
đàn bà dường như đổi sắc. Hình như một sự giận dữ bất ngờ chợt làm bà ta vùng vằng
cố bước lên bậc thang ngắn tiến về phía trước. Tôi ngạc nhiên nhìn ông già chờ
đợi một lời giải thích về cử chỉ bất thường của bà. Chắc có một điều gì không ổn
vì tôi biết đa số người Mỹ thường lịch sự, ít ai bày tỏ ngay những điều khó chịu
trong lòng. Như đoán được ý nghĩ của tôi ông buồn rầu giải thích.
– Cô đừng buồn với thái độ của vợ
tôi. Bà ấy đang buồn rầu. Chúng tôi mất đứa con trai duy nhất ở Việt Nam, nên mỗi
khi thấy người Việt Nam vợ tôi lại xúc động, không ngăn được cảm xúc nên có những
cử chỉ bất thường.
Tôi nhìn bà già đã ngồi xuống chiếc
ghế đá bên lối đi, đang run rẩy cố chống hai tay lên đùi, mắt vô hồn nhìn vào
quãng không gian phía trước. Nếu tôi mất con cho một cái xứ sở xa lạ nào chắc
gì tôi còn giữ được bình tĩnh như bà. Lòng tôi rạt rào niềm thương xót để nói với
ông rằng tôi thông cảm tâm tình của những bà mẹ mất con cho một dân tộc họ
không hề mảy may biết tới.
Trong lúc xúc động tôi cũng nói với
ông là chính tôi và gia đình tôi cũng mất mát rất nhiều trong cuộc chiến chống
cộng sản xâm lăng đó. Và đau đớn hơn thế nữa, chúng tôi đã mất cả quê hương, tổ
quốc. Ông già Mỹ luôn luôn lập đi lập lại rằng tôi biết, chúng tôi biết, rồi
xin phép tôi chạy đến săn sóc cho bà đã ngồi xuống ghế đá cách đó không xa lắm.
Ông nói lớn, chào từ giã khi tôi đi lần xuống phía dưới để dò tìm những hàng chữ
mang tên người anh rể ngoại chủng năm xưa đã nằm xuống ở Việt Nam.
Tôi biết vần W sẽ nằm ở hàng cuối
cùng nhưng cũng mất một lúc lâu mới tìm thấy cái tên Mikes Wright, tên người
anh rể tôi năm kia, khiêm nhường giữa tên của bao nhiêu người. Nhỏ bé và đơn giản
trong một không gian bao la, nhưng thật hào hùng độ lượng như cuộc đời anh và đất
nước đang cưu mang chúng tôi đây.
Tôi lặng chìm trong những giấc mơ
xưa về một gia đình hạnh phúc mà nhớ đến chồng tôi. Tên của Mikes người ta còn
nhớ chứ tên của chồng tôi kẻ thù đã xóa đi. Ngay cả miếng đất nhỏ bé mà chồng
tôi an nghỉ người ta cũng đang toan tính cướp mất của anh. Tôi nhớ đến nghĩa
trang quân đội Biên Hòa. Nhớ đến giây phút vật vã khóc lóc nhìn thi hài anh được
gắn lon giữa hai hàng nến. Nhớ đến những khuôn mặt lầm lỳ, chai sạn vì gió bụi
của những người lính bồng súng chào chồng tôi lần cuối khi đưa chàng về với đất
mẹ năm xưa.
Giữa lúc lặng yên tưởng nhớ thì mấy
bà bạn tôi xuất hiện. Các bà gọi la tên tôi ơi ới, trách tôi xé lẻ tìm vui một
mình. Cả bọn trầm trồ, chỉ trỏ reo vui với những cái tên lạ, nói cười vui vẻ
như không cần biết gì về những niềm đau. Ôi nhân thế thường mau quên để sống,
chỉ có mình tôi hay đi ngược thời gian về những dòng sông cũ. Chúng tôi lại rủ
nhau đi thăm viện bảo tàng không gian gần đó. Một đoàn người vừa đi vừa cười, vừa
hỏi thăm đường rộn vui lên góc phố. Ở đây người ta quen mắt với những cái lố
lăng của du khách từ khắp mọi miền trên thế giới nên chẳng thấy phiền hà.
Đến trưa lúc sắp ra về tôi lại gặp
cặp vợ chồng người Mỹ ban sáng. Lạ một điều là tôi thấy ông già có nét gì rất
quen. Lần này bà có vẻ vui hơn, mỉm cười khi tôi chào gặp lại. Chắc ông đã
giải thích cho bà biết rằng ai cũng có những nỗi buồn, những mất mát khác nhau
chứ không phải riêng bà. Chúng tôi đứng ngoài hành lang nói chuyện. Ông bà cho
tôi biết sẽ về lại Ohio chiều mai, một nông trại xa xôi nằm sát biên giới tiểu
bang Indiana. Ông nói thế nhưng tôi chẳng hình dung được gì ngoài những con số
mà tôi đoán rằng đất đai chắc là rộng lớn. Tôi cũng cho ông biết chúng tôi còn ở
đây thêm vài ngày, đi thăm một vài nơi nữa rồi chào từ giã theo dòng người thăm
viếng.
Buổi sáng hôm sau tôi có thói
quen thức dậy thật sớm trong lúc mọi người còn say trong giấc ngủ. Tôi mở cửa
bước ra ngoài, đi bộ theo con đường Ohio dọc theo bờ sông, rồi tình cờ bước dần
về phía bức tường đá đen. Trời còn sớm quá nhưng tôi thấy dưới chân bức tường
thấp thoáng bóng người. Bước tới gần hơn tôi bất ngờ nhận ra ông bà già Mỹ hôm
qua đang ở đó tự bao giờ. Bà ngồi hẳn xuống đưa tay sờ lên những hàng tên như
vuốt ve một vật gì quý giá.
Gặp lại nhau tôi lên tiếng:
– Chào ông bà. Ông bà ra đây sớm
quá. Tôi cứ tưởng chỉ mình tôi đi bộ trong khu này…
Ông ôn tồn giải thích:
– Chiều nay chúng tôi trở về lại
Ohio rồi nên thu xếp thời gian thăm lại nơi đây lần nữa.
Bà vẫn không nói, đưa tay sờ lên
phiến đá. Tôi chắc bà thương yêu người con và đau đớn lắm khi nhìn lên hàng chữ
có tên con mình. Mắt tôi tò mò nhìn theo và ngạc nhiên thấy tay bà đang đặt
trên hàng chữ của vần W. Như có một linh tính báo trước chuyện lạ lùng tôi buột
miệng hỏi ông:
– Con trai của ông bà tên là gì
nhỉ. Anh ấy mất ở Việt nam năm nào?
– Con trai tôi tên là Mikes
Wright, tử trận ở Việt nam năm 1972. Tên nó đây, ngay đây này…
Vừa nói ông vừa chỉ về phía tay
bà đang xoa xoa che khuất cái tên mà trước đây tôi đã đặt tay vào. Chính
đó là tên anh rể của tôi. Cha của đứa cháu mồ côi mà chị tôi yêu quý như báu vật
của cuộc đời mình. Tôi đứng lặng người nhìn ông rồi lại nhìn bà. Sao cuộc đời lại
có sự tình cờ kỳ diệu đến thế này. Để chắc chắn mình không nằm mơ tôi hỏi lại
những chi tiết rất chung chung mà tôi còn nhớ về anh.
– Anh Mikes của ông bà rất nhiều
râu và vui tính lắm phải không.
– Cô nói gì tôi không hiểu. Dĩ
nhiên ngày ấy Mikes còn trẻ lắm nên râu ria mọc là thường.
Tôi nhìn lại ông và mơ hồ thấy
nét quen thuộc mà tôi chợt khám phá ra hôm qua, là ông trông rất giống Mikes ở
cái cằm vuông vức và bộ râu rậm dài. Ông già bùi ngùi nói tiếp.
– Vợ tôi buồn một điều là đáng lẽ
ra Mikes đã hết hạn phục vụ ở Việt nam trở về Mỹ nhưng vì yêu thương một người
con gái bản xứ nên tình nguyện phục vụ thêm một thời hạn nữa và cái thời hạn đó
không bao giờ chấm dứt…
– Thế ông bà có biết tin tức gì về
người con gái ấy không.
– Mikes có gởi cho chúng tôi một
tấm hình, thông báo là đã thành hôn. Lâu quá rồi nhưng chúng tôi còn giữ tấm
hình ấy trong tập ảnh gia đình ở Ohio. Chỉ có thế mà thôi.
Tôi muốn nói với ông chính tôi là
em người con gái Việt Nam ấy nhưng sợ rằng mình nhận lầm, vì biết đâu có một
anh Mikes nào khác nữa nên chỉ nói với ông:
– Hơn ba mươi năm trước đây tôi
cũng có một người anh rể tên là Mikes Wright, quê quán ở miền trung bắc Mỹ. Tôi
chỉ biết thế không biết có phải là anh Mikes con của ông bà không. Tôi từ Texas
lên đây chơi nhưng chính là để nhìn thấy tên anh Mikes Wright một lần trên tấm
bia đá này.
Ông mở mắt nhìn tôi kinh ngạc rồi
kéo bà lên, nói với bà tin tức quan trọng đó. Ông luống cuống, mời tôi ngồi xuống
tấm ghế đá trong khi bà cứ há miệng ra thẫn thờ chờ đợi. Rồi ông dồn dập hỏi.
– Tôi chắc là đúng rồi. Đấy cô
coi có cái tên Mikes Wright nào khác đâu. Thế chị cô bây giờ ở đâu. Tôi muốn hỏi
thăm tin tức về Mikes trong những ngày cuối cùng.
– Thưa ông bà, chị tôi vẫn còn ở
Việt Nam. Chắc rằng chị tôi cũng chẳng biết gì hơn ông bà.
Như chính tôi đây chẳng biết gì
hơn tin tức cuối cùng của chồng tôi và Mikes. Đầu tiên người ta chỉ thông báo
cho chúng tôi là hai người đã mất tích sau một đợt tấn công của địch và cả tuần
lễ sau mới tìm thấy xác mang về.
– Thế thì đúng như cô nói, chắc
đúng là Mikes rồi. Khi chúng tôi đến nhận xác Mikes thì đã không mở ra được nữa
vì những điều kiện vệ sinh.
– Nhưng tôi có một tin quan trọng
về anh Mikes, không biết ông bà có muốn nghe không?
– Tin gì vậy, thưa cô. Chúng tôi
không còn gì trên đời này ngoài hình ảnh của Mikes và những gì liên quan đến đứa
con yêu thương của chúng tôi.
– Chị tôi có một người con với
anh Mikes. Chính anh Mikes cũng không biết vì lúc vừa mới có thai, chưa kịp
thông báo thì anh Mikes và chồng tôi đã không về nữa.
Ông bà liên tục kêu lên những lời
thống thiết, không rõ là lời đau khổ hay mừng vui.
– Chúa ơi, thật thế sao! Chúa ơi!
Chúa ơi!
– Thật thế thưa ông bà. Cháu giống
Mikes lắm. Nếu ông bà thấy cháu là nhận ra ngay thôi.
– Thế bây giờ cháu ở đâu thưa cô.
– Cháu vẫn còn ở Việt nam. Vì
thương mẹ nên cháu không về Mỹ theo chính sách trở về quê cha của những đứa con
lai.
Tôi và ông bà Wright cùng bước đi
như trong cơn mơ vì sự gặp gỡ bất ngờ. Tôi cho ông bà địa chỉ, số điện thoại của
tôi và nhận lại địa chỉ số điện thoại của ông bà ở Ohio để tiện bề liên lạc. Những
thông tin ban đầu mặc dù đã chính xác, nhưng tôi muốn biết chắc tấm ảnh ngày
xưa có phải là của chị tôi hay không.
Chiều hôm đó ông bà Wright về lại
Ohio. Tôi đoán ông bà vui vẻ lắm. Mất một đứa con cho cái xứ Việt Nam xa xôi
nhưng ông bà sẽ được nhận lại một đứa cháu ngoan ngoãn và đứa con dâu còn giữ
đúng truyền thống Việt Nam. Tôi biết chị tôi là một người đàn bà Việt Nam hiền
thục. Tôi đã đoán không sai vì ba hôm sau khi tôi còn ở khách sạn thì tiếng
điện thoại lại reo. Lần này ông bà Wright theo xe trở lên, mang cả gia đình đứa
con gái gồm con rể và hai đứa cháu. Họ lái một chiếc xe van lớn mang theo cả tấm
ảnh ngày xưa.
Gặp nhau tại công viên ông bà đưa
tôi tấm ảnh và giải thích:
– Vội quá nên chúng tôi không
book được vé máy bay. Vả lại Nathalie, em gái của Mikes và chồng con nó ở gần
đó cũng muốn đi nên chúng tôi lái xe cho tiện.
Tấm ảnh chụp cách đây hơn ba mươi
năm giờ đã ố vàng. Màu sắc phai theo thời gian nhưng vẫn còn sắc nét. Tôi cầm tấm
ảnh như đưa tay chạm vào một phần quá khứ xa xăm. Trong ảnh, chị tôi người con
dâu đất Mỹ, e ấp đứng bên người chồng râu ria xồm xoàm, đang đưa cánh tay khỏe
mạnh ôm vòng lấy người con gái như ôm ấp chính cuộc đời cô.
– Đúng là chị tôi rồi.
Ông bà Wright mừng vui như mở hội.
Bà như trẻ trung hẳn lên. Bao nhiêu bệnh tật gần như tan biến. Mấy người đi
theo cũng lộ nét mừng vui hớn hở.
Bà hỏi tôi những chuyến bay về Việt Nam với những dự định đi thăm viếng đứa cháu, con của người con tưởng như đã mất, bỗng dưng còn để lại trong cuộc đời này cả một phần huyết nhục. Tôi thưa với ông bà rằng tôi đã nói chuyện với chị tôi qua điện thoại. Chị cũng rất vui mừng về sự gặp gỡ này. Chị sẵn sàng cho cháu về quê nội cũng như chính chị sẵn sàng về làm dâu ông bà, chăm sóc cho ông bà trong lúc tuổi già đúng như truyền thống của người Việt Nam.
Tôi đã biết tình yêu của chị dành cho Mikes nên không ngạc
nhiên với quyết định này. Ông bà chăm chú nghe tôi giải thích phong tục Việt
Nam là người vợ phải làm dâu phụng dưỡng cha mẹ chồng. Ông kêu Chúa ôi liên tục
sau mỗi câu nói làm tôi có cảm tưởng như đang kể cho ông bà nghe về chuyện
phong thần, nhưng tôi biết bây giờ đối với ông bà, đất trời là cả một mùa xuân.
Sau đó một thời gian dài, tôi lại
bận bịu vì phải lo lắng dẫn ông bà Wright về lại Việt Nam. Bận bịu nhưng lòng
tôi sung sướng. Tôi không giấu được xúc động khi nhìn thấy ông bà lần đầu tiên
gặp lại đứa cháu nội sau hơn ba mươi năm thương nhớ người con đã khuất. Ông bà
cứ kêu lên những lời vui mừng vang một góc sân và làm ngạc nhiên những người
hàng xóm Việt Nam vốn không thiếu sự tò mò.
– Oh my God! He just looks like
his father! Oh my God!
Bây giờ chị tôi, một người con
gái Việt Nam về làm dâu muộn màng trên đất Mỹ, đang thay cha mẹ chồng cai quản
một nông trại trồng bắp ở Ohio với đứa con duy nhất của một cuộc tình nở vội
trong cuộc chiến Việt Nam.
◾◾◾◾◾
Trí Nhân Media
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét