Pháo thủ Phạm Thành Nhân
22/7/2014
Hình: Một tàu đổ bộ của Hải quân Việt Nam chất đầy người tị nạn từ
Huế, ghé Đà Nẵng hôm 24/3/1975.
Sau khi toàn bộ các đơn vị cuả Sư
Đoàn Thuỷ Quân Lục Chiến được lệnh rút khỏi Quảng Trị thì tại Đà Nẵng tình hình
trở nên căng thẳng, dân chúng bắt đầu nhốn nháo, những chiếc xe đủ loại chất đầy
người xuôi về Nam rời bỏ thành phố và thành phố trở nên hỗn loạn cảnh tượng
không khác gì vào những ngày đầu tháng Tư năm 1972 tại Quảng Trị.
Vấn đề tác xạ yểm trợ cho các đơn vị bạn rất hạn chế, một quả đạn đại bác được bắn đi phải có lệnh theo từng hệ thống chỉ huy cho nên đó là điều bất lợi cho quân bạn khi bị địch quân tấn công. Hàng ngày, với nhiệm vụ cuả một trung đội phó, tôi kiểm soát các loại đạn phòng thủ cuả 2 khẩu đội như: đạn chiếu sáng, đạn chống biển người(còn gọi là tổ ong), đạn khói, và một số đạn với đầu nổ chạm để sẵn sàng yểm trợ cho quân bạn.
Cho đến chiều ngày 28 tháng 3 năm 1975, trong lúc nhận lệnh cuả thiếu uý trung
đội trưởng, đi kiểm soát lại các vọng gác trước khi trời tối, tôi thấy một toán
quân bạn từ trong núi di chuyển ngang qua trung đội, tôi vội chận một người
lính lại để hỏi:
-Các anh đi đâu vào lúc trời tối như thế này?
Người lính tác chiến trả lời:
-Tụi tôi được lệnh di chuyển về thành phố Đà Nẵng.
Tôi vội chạy vào căn lều cuả thiếu uý Cầu la lớn:
-Anh Cầu ơi! Anh em tác chiến họ rút đi rồi, bây giờ chỉ còn trung đội cuả mình
nằm ở đây thôi.
Thiếu uý Cầu hỏi lại tôi:
-Mày có chắc là họ rút đi hết không?
Nói xong Thiếu Uý Cầu gọi máy về pháo đội và được lệnh cuả đại uý pháo đội trưởng
là trung đội chuẩn bị sẵn sàng di chuyển khi có lệnh.
Đến khuya thì trung đội mới được lệnh xếp càng súng móc vào chiếc Cargo 4 tấn và
cuối cùng thì tôi nói với hai người khẩu trưởng tháo máy nhắm và chuẩn bị lên
đường.
Lần đầu tiên trong đời pháo thủ cuả tôi, một trung đội với hai khẩu đại bác 105
ly di chuyển giữa đêm khuya mà không có một đơn vị tác chiến nào bảo vệ pháo
binh. Thiếu Uý Cầu ngồi xe trước dẫn đường và tôi ngồi xe sau, tất cả pháo thủ
trên hai chiếc xe được lệnh súng cá nhân chiã ra hai bên đường.
Đoàn xe mở đèn mắt mèo đi trong đêm tối và về đến phi trường Đà Nẵng lúc 2 giờ
sáng trong lúc phi trường đang bị cộng quân pháo kích, từng loạt các phi cơ đủ
loại cuả không quân cất cánh cho đến khi trời vừa hừng sáng. Trung đội được lệnh
di chuyển xuống bãi biển Non Nước để sát nhập chung cùng pháo đội và sẽ có tầu
cuả Hải Quân vào đón.
Bãi biển Non Nước buổi sáng sương mù dầy đặc biển động mạnh, xa xa trong lớp
sương mù thấp thoáng bóng dáng cuả những chiến hạm,trên mặt biển những xác người
cộng với những chiếc phao bằng vỏ xe trôi bồng bềnh theo cơn sóng bạc đầu tắp
vào bờ rồi cũng theo con sóng đó trôi ra biển khơi.
Bãi biển đông nghẹt người kể cả thường dân cũng như một số quân nhân cuả các
binh chủng khác. Cảnh hỗn loạn và kinh hoàng xẩy ra khi một chiến hạm đang tiến
vào bờ, mọi người chạy xuống nước để dành nhau lên tầu thì nhiều loạt súng nổ
vào đám người, thủ phạm là một nhóm quân nhân vô kỷ luật và một số quân phạm
thoát ra được từ quân lao Đà Nẵng, chúng bắn xối xả để ngăn chận đám người đang
lội xuống nước để dành lên tầu.
Trung Sĩ Nguyễn Duy Hinh thuộc pháo đội P tân lập
cuả pháo binh Thuỷ Quân Lục Chiến đang đứng trên bãi biển bất ngờ bị một chiếc
thiết vận xa M113 chạy điên cuồng đâm vào đám đông, Trung Sĩ Hinh bị cán nát
đùi phải, nằm giãy giụa một lúc rồi bất động. Cách đó không xa, Trung Úy Nguyễn
văn Hoà thuộc pháo đội I Tiểu Đoàn 3 Nỏ Thân Pháo Binh Thuỷ Quân Lục Chiến ôm
xác người em gái bị trúng đạn cuả bọn quân nhân vô kỷ luật bắn bừa bãi để chúng
dành nhau bơi ra tầu. Trong khi mọi người vội vã bơi ra biển, có một bóng người
nghiêng nghiêng đổ dưới ánh nắng mặt trời trên tay bồng xác người em gái tóc
xoã tung bay trong cơn gió lộng, anh lững thững đi ngược về thành phố Đà Nẵng.
Mọi người bắt đầu bơi ra tầu, Thiếu Uý Cầu đứng chần chừ một lát rồi nói với
tôi:
-Nhân ơí! tao không biết bơi.
-Sĩ quan Thuỷ Quân Lục Chiến mà không biết bơi chán anh quá!
Tôi trả lời Thiếu Uý Cầu rồi quay lại nói với hai người lính:
-Thằng Văn và Tòng, hai đứa tụi bay kè thiếu uý trung đội trưởng bơi ra tầu.
Con sóng dữ cuả ngày biển động nhiều lúc lại đẩy ngược tôi vào bờ, cho đến khi
bơi gần đến con tầu thì tôi đuối sức và chìm xuống, chung quanh nước đen ngòm,
tôi đang vùng vẫy thì bỗng tay chạm vào một sợi dây thừng, tôi nắm lấy và giựt
mạnh và thấy thân thể mình nhẹ bổng và từ từ được kéo lên mặt nước, mấy người
thuỷ thủ cuả chiến hạm kéo tôi lên bửng tầu nằm thở dốc, sau này tôi được một
thuỷ thủ kể lại rằng khi thấy một người lính Thuỷ Quân Lục Chiến đang chìm xuống,
anh và một thuỷ thủ nưã đã quăng sợi dây thừng xuống để cứu tôi.
Xin cám ơn người lính thuỷ đã cứu tôi thoát chết để đến ngày hôm nay tôi còn ngồi
đây về viết những dòng chữ này cũng như xin cám ơn vị hạm trưởng và tất cả thuỷ
thủ đoàn cuả Hải Vận Hạm Lam Giang HQ402 đã cứu vớt các chiến hữu cũng như đồng
đội cuả tôi trong hoàn cảnh đầy nguy hiểm và khó khăn cuả ngày 29 tháng 3 năm
1975. Một lời cám ơn chân thành nhất sau 39 năm dù là muộn màng.
Đến khoảng nưả đêm thì tất cả mọi người trên chiếc HQ402 được lệnh chuyển qua một
chiến hạm lớn (hình như là HQ5), mọi người được lệnh bỏ lại vũ khí cá nhân trên
sàn tầu và theo ánh đèn pha chiếu thẳng từ chiến hạm HQ5 leo thang lưới được thả
ngang hông tầu và leo sang và đến hôm sau thì đổ chúng tôi xuống quân cảng Cam
Ranh.
Ngày hôm sau trung đội lại được lệnh lên trấn đóng một ngọn đồi gần bờ biển,
không thể tưởng tượng được là một ông sĩ quan trung đội trưởng không một khầu
súng, dù là súng colt và một trung đội lính cũng không một khẩu súng cá nhân
không một trái lựu đạn dẫn nhau lên núi đóng quân. Thiếu uý Cầu lầm bầm chửi thề:
-Đéo mẹ bố tiên sư, không súng ống lên đây làm cái gì? Việt Cộng nó mà tấn công
thì chết cả đám, bố khỉ.
Tôi cười cười chọc:
-Thì cắt trái lựu đạn da cơ hữu ra quăng vào mặt nó.
Đám lính cười ồ lên, Thiếu Uý Cầu trừng mắt nhìn tôi trả đuã:
-Mày cắt trước làm gương đi.
Trời đã tối hẳn, hai anh em trải tấm poncho nằm cạnh bên nhau, kể lại cho nhau
nghe về đời quân ngũ, 7 năm làm lính, 7 năm cầm súng đánh giặc vào sinh ra tử,đi
khắp vùng chiến thuật, từ làng mạc xa xôi hẻo lánh đến những vùng sình lầy và
trên những đỉnh núi cao cuả dãy Trường Sơn, miền địa đầu giới tuyến, Khe Sanh,
Cam Lộ, Gio Linh, Ái Tử v.v.. rồi đến trận chiến Cổ Thành Quảng Trị, không bao
giờ có thể ngờ rằng ngày hôm nay, đêm nay nằm đây, không một khẩu súng trong
tay trong khi chiến tranh chưa kết thúc.
Một buổi trưa hè trên một ngọn đồi cuả vịnh Cam Ranh ánh nắng lấp lánh chiếu
qua cành lá, viên thiếu uý trẻ nói với người trung đội phó cuả mình về một cuộc
chiến đang tàn...
Đã 39 năm trôi qua, ba mươi chín lần cuả Tháng Ba, không phải chỉ có một lữ
đoàn cuả binh chủng Thuỷ Quân Lục Chiến bị gẫy súng mà là một sự đỗ vỡ toàn diện
để đưa một đất nước đã ròng rã chiến đấu trong hơn hai mươi năm với những trận
đánh kiêu hùng cuả người lính Việt Nam Cộng Hoà để rồi chấm dứt trong nỗi uất hận,
tức tưởi.
Có những câu chuyện được nghe kể lại rồi sẽ quên đi, nhưng có chứng kiến tận mắt
những cảnh tượng đau thương, oan nghiệt chắc chắn sẽ không bao giờ quên.
Người hạ sĩ quan xấu số năm xưa thân xác đã chôn vùi trong cát cuả bãi biển Non
Nước hay đã cuốn theo con sóng ra ngoài biển khơi nghìn trùng trôi đi và trôi
mãi.
Người sĩ quan bồng xác người em gái có còn ở lại thành phố cũ hay đã trôi theo
dòng đời lưu lạc phương nào.
Tháng Ba trời buồn, gió cao.
◾◾◾◾◾
Trí Nhân Media
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét