CHUYỆN ĐỜI SAU 1975
TTNH
Sau 1975, chồng đi tù cải tạo,
không còn lương, tôi không thể nằm chờ sung rụng từ sự tiếp tế dài hạn của cha
mẹ ruột khi tuổi cha mẹ đã già, lại còn gánh thêm nhà chồng của mình, tôi mon
men ra chợ trời kiếm sống.
Trên con hẻm chợ Bàn Cờ, cách nhà
tôi độ hai mươi phút đạp xe đạp, nơi tập trung nhiều gian hàng hầu hết bán ly,
tách, chén, dĩa... Cũng như bao người, tôi trải tấm nylon trước hiên nhà của
người nào đó rồi bày hàng ra bán. Hàng ban đầu từ đồ gia dụng trong nhà, coi những
gì không cần thiết đem ra bán hết. Khách hàng hầu hết là những bộ đội, cán bộ
hay người ngoài Bắc vào Nam tham quan mua mang về. Ngoài đó thiếu thốn mọi bề,
nên bất kể cái gì cũng bán được, kể cả chén mẻ!
Ngày đầu tôi chở hai giỏ chén,
dĩa... ra chợ. Bán được vài hôm, có người đem hàng tới chào tôi mua, lúc thì chục
chén, lúc thì chục cái ly, khi thì vài cái rổ rá, khay, mâm... tôi mua rồi bán
lại cho người khác để kiếm lời, vô hình trung nghề dạy nghề, tôi... ngự luôn tại
đó, trở thành dân chuyên nghiệp chợ trời. Lai rai vậy cũng vui và vui nhất là
kiếm được vài đồng tiền chợ đắp đổi qua ngày. Thời gian không lâu, buôn bán
phát triển, tôi đến tận nhà những người thân quen lùng thêm hàng hóa. Hàng càng
lúc càng nhiều, chở tới chở lui không nổi, vừa vất vả, vừa dễ bị bể nên tôi tìm
nhà người quen ngay đường Cao Thắng gần đó chiều tối gởi nhờ trước khi về nhà rồi
sáng hôm sau ra nhận lại đem bán. Dân miền Nam lúc đó cùng hoàn cảnh như nhau
nên thông cảm giúp đỡ nhau.
Tôi bán như thế, dễ chừng đã hơn
nửa năm. Tự lực được nên lòng tôi vui, an tâm từ đây không phiền đến cha mẹ nữa.
Thế nhưng, cuộc đời không luôn như mình muốn, nhất là sống dưới chế độ cộng sản,
rất bấp bênh, giai đoạn mà chính sách nhà nước thay đổi xoèn xoẹt, vừa khắc
nghiệt vừa quái đản không ai lường nổi.
Hôm đó, nhân sinh nhật Hồ Chí
Minh, ngoài đường mọi nhà treo cờ san sát đến nỗi không thấy phố, không thấy
nhà, chỉ thấy đỏ rực một màu cờ máu. Nhà nước còn muốn làm sạch đường phố, nên
ra sắc lịnh càn quét mọi gian hàng chợ trời, tịch thu tất cả hàng hóa của dân.
Đám thanh niên với băng tay đỏ cùng những tên công an súng ống gườm sẵn túa ra,
lùa hết mọi người cùng hàng hóa về ban quản lý chợ.
Tôi không ngoại lệ. Nghĩ mình
không làm gì sai trái, tôi... ngoan ngoãn theo họ lập biên bản kê khai hết tài
sản để họ chuyển về phường tôi giải quyết.
Hôm ra phường tại địa phương, tôi
cầm theo tờ báo “Giải Phóng“ của họ, bày ra trước mặt tên trưởng phòng thương
nghiệp, rồi nói:
– Ông xem, hàng của tôi không nằm
trong diện quốc cấm. Tờ báo viết rành rành ra đây, nhà nước chỉ cấm buôn bán:
1- Vũ khí.
2- Ma túy.
3- Hóa chất thuốc men.
4- Kim loại, vòng vàng.
5- Vải vóc.
Còn tôi bán chén đĩa ly tách, đồ
gia dụng trong nhà, tại sao lại bị tịch thu?
Tên trưởng phòng ngửa người dựa
vào ghế khật khà, bình thản, làm như rất hiểu chuyện, không có gì quan trọng xảy
ra:
– Chính xác. Hàng của cô không bị
tịch thu.
– Thế thì, xin ông hoàn trả lại
cho tôi.
– Hoàn trả lại? Gã nhíu mày, tưng
tửng nhìn tôi, nói:
– Trả lại, để rồi cô tiếp tục bán
à?
Tôi thản nhiên:
– Tôi không dùng nữa thì bán chứ
sao.
– Cô có biết buôn bán là trái với
qui định chính sách nhà nước không? Là “bóp nghẹt kinh tế quốc doanh”, là “người
bóc lột người” không?
– Ô hay, buôn bán có thương lượng
đàng hoàng, ai bóc lột được ai? Có mỗi cái gian hàng vỉa hè mà nhà nước... sợ đến
bóp nghẹt được kinh tế nhà nước sao?
Gã không trả lời tôi, gã nhìn
chăm chăm vào mặt tôi, chậm rãi phán:
– Hàng cô không bị tịch thu,
nhưng bị thu mua!
– Tại sao?
– Vì tội cô bán chợ trời!
Biết chúng lật lọng, bày trò ăn
cướp, “thu mua” với “tịch thu” đối với xã hội cộng sản đồng nghĩa như nhau, chỉ
khác cách nói, cách dùng chữ, tôi bắt đầu nóng mặt:
– Không, tôi không bán... chợ trời.
Tôi bán... chợ đất. Rõ ràng tôi ngồi bán dưới đất!
Gã lườm và nhìn tôi từ đầu xuống
chân, soi mói.
Từ sau 1975, nhiều phụ nữ miền
Nam thay đổi cách ăn mặc, cất hay lôi ra bán hết những chiếc áo dài, những bộ đầm,
giày dép, quần tây sang trọng, thay vào những bộ đồ lùi xùi lèng xèng che dấu
thân phận... giàu sang để khỏi bị để ý và cho... hợp thời trang lúc bấy giờ. Những
chiếc áo dài hồi đó bị kết tội “tư sản”. Hai tà áo dài thừa thãi là tội đồ
phung phí tài sản nhà nước, đi ngược lại chính sách vô sản chuyên chính mà cộng
sản chủ trương.
Thế nhưng, nghịch lý ở chỗ, bán vẫn
có người mua, đa số người mua lại là dân miền Bắc! Xã hội lúc đó làm như kéo
cái giàu của dân miền Nam xuống và nâng đời sống miền Bắc lên sao cho ngang
nhau, hay nói cho rõ ra cùng nghèo đói như nhau mới xứng với câu “san bằng xã hội”.
Riêng tôi, sau 1975, tuy gia đình sa sút (cả nước chứ chẳng riêng nhà tôi)
nhưng tôi có cái suy nghĩ riêng, vẫn giữ phong cách phụ nữ miền Nam, không để
mình thê thảm bệ rạc cần cộng sản vào giải phóng mình. Do vậy, dù đi bán chợ trời,
tôi vẫn mặc quần jean, áo pull (áo thun có hàng chữ tiếng Anh trước ngực) mắt
đeo kiếng cận thị, đầu đội nón lưỡi trai, bộ dáng của một cô sinh viên “tiểu
thư“ đi học, và ngay khi tới phường, tôi vẫn mặc như thế. Gã trưởng phòng “ngắm”
tôi xong, hỏi:
– Chắc cô là sinh viên trường luật?
Đang bực mình vì hai chữ “thu
mua” đồng nghĩa với mất trắng, vì rõ ràng biết bao người hàng hóa từng bị thu
mua mà chúng nó có trả tiền đâu, tôi cay cú:
– Không, tôi mù chữ! Đang theo đuổi
lớp bình dân học vụ buổi tối!
Biết nói chuyện với tôi chỉ bằng
thừa, gã kết thúc câu chuyện:
– Thôi nhé, hàng của cô không bị
tịch thu, chỉ bị thu mua thôi.
Tôi nhìn gã:
– Nếu mua thì xin ông trả tiền!
Gã mở tròn mắt:
– Hàng chưa bán được lấy tiền đâu
trả cho cô?
– Nếu thế thì bán cho tôi, tôi
mua!
Gã lắc đầu:
– Tôi không cãi với cô nữa. Cô về
đi, một tuần sau, hàng bán xong sẽ trả tiền cho cô.
Biết có nói thêm cũng vô ích, tôi
thất vọng ra về, lòng buồn hiu hắt. Bao nhiêu “tài sản” vốn cũng như lời gây dựng
bấy lâu nằm hết vào số hàng hóa đó, coi như bao công trình mồ hôi nước mắt của
mình đều nuôi béo bọn cướp cạn.
Tôi thất thểu bước ra cổng, dắt
xe đạp, đạp về nhà. Nắng Sài Gòn hôm đó rực sáng soi rõ con đường dài mênh mang
trước mặt mà sao tôi thấy tôi như đi vào ngõ cụt, tương lai mịt mờ. Thành phần
gia đình “ngụy quân, ngụy quyền” như tôi, muốn có một đời sống lương thiện cũng
không thực hiện nổi trong chế độ này. Buôn bán cũng cấm, xin một chân thư ký
hay công nhân quèn cũng không ai dám nhận.
Cái lý lịch “vợ ngụy” đen thui,
như bản án tử hình treo trước ngực chờ ngày hành quyết, giết dần mòn đời tôi. Họ
chỉ muốn đuổi tôi đi vùng kinh tế mới, nơi rừng sâu nước độc. Trời ạ, tôi vốn
“liễu yếu đào tơ” quen cầm bút hơn cầm cuốc, bắt tôi cuốc đất, thì năng suất cuốc
được bao nhiêu đất trong một ngày, hay mắc công khiêng tôi vô nhà thương khi
tôi bị xỉu?! Tôi buông tiếng thở dài, lững thững đạp xe loanh quanh, vô hồn,
không định hướng. Tôi chưa muốn về nhà, dù nhà gần đó. Tôi thẫn thờ đạp mãi, đạp
mãi không biết đi đâu, về đâu, cho đến lúc tôi đâm xầm vào một người băng qua
đường. Cả hai lăn cù, tôi mới trở về thực tại.
Một tuần sau tôi trở lại theo lời
hứa hẹn của ông ta. Gã gặp lại tôi, cười giả lả:
– Vẫn chưa bán được cô. Hẹn cô một
tuần sau nữa nhé.
Về nhà, tôi lại nằm, chờ... sung
rụng từ sự tiếp tế của ba tôi. Thời gian dài lê thê, không biết làm gì hơn
ngoài sự theo đuổi lời hứa cuội của gã trưởng phòng thương nghiệp phường. Hết
tuần này, gã lại hẹn tuần khác. Bao người bị thu mua như tôi, không còn thời
gian theo đuổi đành bỏ cuộc, còn tôi, rảnh mà, tôi theo đuổi cho tới cùng.
Một ngày, tôi trở lại theo lời hẹn
của gã, cũng chỉ nhận những lời hứa cuội, tôi lại thất thểu ra về. Hôm đó, vừa
ra khỏi cổng, tôi bắt gặp một cô gái ngang tầm tuổi tôi bước vào. Tôi vội hỏi:
– Chào chị, chị cũng bị tịch thu
hàng hóa như tôi hả?
Cô gái ngạc nhiên, lắc đầu:
– Không, tôi là công nhân viên,
tôi sắp lập gia đình nên cơ quan cấp cho tôi danh sách cho phép mua một số đồ
gia dụng theo giá nhà nước.
Tôi tần ngần một lát, rồi lên tiếng:
– Chị có thể cho tôi đọc danh
sách chị được phép mua những gì không?
Biết mình tọc mạch tò mò một cách
đường đột quá bất lịch sự, tôi giải thích mọi nỗi cho cô gái hiểu hoàn cảnh tôi
đến đây. Cô gái vốn dân miền Nam hiểu ra, dễ thông cảm với tôi, rồi tự động lấy
trong túi xách một tấm giấy nhỏ liệt kê toàn bộ hàng cô được mua, nào mùng mền,
chăn, gối, ly, tách, chén, đĩa, đũa, muỗng, dao kéo, nồi niêu...
Tôi mừng rơn, nhắc cô gái:
– Chị vào nhớ hỏi giùm, những bát
chén dĩa ly tách... chị được mua là đồ kiểu hay đồ sành nhé. Họ tịch thu của
tôi và nhiều bạn hàng khác toàn đồ kiểu đấy.
Cô gái gật đầu, bước vào phòng gặp
gã trưởng phòng, cô hỏi theo lời tôi dặn. Gã ta ngửa người dựa ra sau ghế, cười
hỉ hả:
– Nhà nước làm gì có đồ kiểu mà
bán cho cô. Chỉ đồ sành thôi!
Gã không ngờ tôi đang lấp ló
ngoài cửa. Vừa nghe gã nói xong, tôi bước ngay vào phòng, đứng trước mặt gã,
nghiêm mặt nói:
– Ông tịch thu đồ của tôi toàn đồ
kiểu, nay có người mua, sao ông không bán để trả tiền cho tôi?
Biết gặp thứ... dữ (mà tôi cũng
“dữ” thật, con giun xéo quá cũng uằn thôi mà!), gã hạ giọng:
– Thôi cô về đi, ngày mốt cô trở
lại, tôi trả tiền cho cô.
Để không bị gạt gẫm, hứa trăng hứa
cuội như bao lần rồi quịt, tôi yêu cầu gã viết giấy ghi đúng nội dung gã vừa
nói ra. Để yên chuyện, gã làm theo yêu cầu của tôi, và trước mặt gã, tôi còn
xin cô gái cho tôi biết tên tuổi và địa chỉ nhà cô nữa. Nắm sẵn các chứng tích,
tôi mới an tâm ra về.
Đúng hai ngày sau, tôi trở lại. Lần
này thấy tôi đến, gã không nói lời nào với tôi mà gọi nhân viên ra làm việc với
tôi. Tên nhân viên như đã chuẩn bị sẵn từ bao giờ, có lịnh, hắn mang tờ giấy
ghi chú toàn bộ hàng mà tôi bị tịch thu cùng giá cả từng món ghi bên cạnh đưa
tôi đọc qua rồi trao cho gã trưởng phòng ký duyệt. Số tiền trả cho tôi, theo định
giá của họ chỉ còn 150 đồng trong khi vốn của tôi mua vào hơn 500 (giá trị tiền
tệ lúc đó, lương bác sĩ 100 đồng, cán bộ công nhân viên 65 đồng, và công nhân
lao động chỉ 30 đồng).
Trời ạ, ông Trời thấu chăng, ai
bóc lột ai? Trên thế gian này, có chính sách quái gở nào (chắc chỉ có từ bọn cộng
sản Việt Nam) người mua có quyền định giá trả cho người bán?! Quyền hành nằm
trong tay kẻ cướp “Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan” rất đúng trong trường hợp
của tôi. Không còn cách nào khác, tôi đành ký nhận, dù gì có vẫn hơn không!
Tôi cầm tiền ra về, sực nhớ còn
năm cái giỏ chứa hàng hóa của tôi, giỏ nào cũng tốt và giá trị, tôi lại trở vô,
gặp gã trưởng phòng, nói:
– Ông thu mua ly tách, chén
dĩa... Còn năm cái giỏ chứa, xin ông trả lại tôi.
Gã không trả lời trực tiếp với
tôi, quay vào trong, nói với vô:
– Anh em nào lấy năm cái giỏ trả
cho cổ.
Có tiếng hỏi vói ra.
– Màu gì thưa anh?
Tôi vội đáp thay:
– Ba cái màu xanh dương, hai cái
màu đỏ.
– Không thấy giỏ nào có màu đó hết!
Bấy giờ, gã trưởng phòng mới nói
với tôi:
– Cô vào trong kho, lấy năm cái
giỏ khác thay thế.
Được lịnh, tôi bước vào trong. Mắt
tôi hoa lên, chao ôi, không biết cơ man nào là giỏ không, nằm la liệt chồng chất
cả một góc phòng. Những giỏ này chắc chắn là của những người bị tịch thu hàng
hóa như tôi. Tội nghiệp dân tôi, những kẻ thấp cổ bé miệng, biết kêu ca vào
đâu, đồng tiền kiếm đã khó khăn còn bị cướp ngày cướp đêm hoành hành, kêu Trời
sao thấu?!
Tôi chọn năm giỏ ưng ý rồi bước
ra ngoài, chìa cho gã trưởng phòng thấy rồi lẳng lặng ra về. Tôi khinh bỉ gã ra
mặt, nguýt mắt đi, không một lời chào gã. Tôi lầm thầm trong đầu, đúng là “Những
Tên Cướp Cạn” đội lốt chính quyền!
Cuối cùng, không thể sống và
không còn con đường sống trong chế độ cộng sản khắc nghiệt, man rợ trên chính
quê hương mình, bằng mọi cách, tôi tìm đường ra đi.
Nơi xứ người, oái ăm thay, dù
khác chủng tộc, màu da, tiếng nói, nhưng với tấm lòng nhân hậu và chính sách
nhân bản, họ đã mở rộng vòng tay đón nhận và cưu mang tôi, cho tôi hít thở
không khí tự do với một cuộc sống bình yên, được sống đời tôi muốn sống, thoải
mái từ vật chất lẫn tinh thần, và tôi đã nhận nơi này làm quê hương thứ hai với
niềm tri ân vô bờ bến trong tôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét