6-11-2018
(TM Phong trào Diên Hồng Thời Đại VN)
Đọc thêm: TỘC KINH VÀ CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT NAM HẢI NGOẠI
(TM Phong trào Diên Hồng Thời Đại VN)
Đọc thêm: TỘC KINH VÀ CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT NAM HẢI NGOẠI
Tập đoàn Việt gian Cộng sản bán nước ngay trong sách sử và gần
đây, tập đoàn Việt gian hủy bỏ môn lịch sử để học sinh quên đi cội nguồn dân tộc,
bắt các học sinh từ cấp 1 đến cấp 3 phải học tiếng Trung (Tàu Hán) để Hán hóa học
sinh ngay từ khi còn nhỏ.
Việt gian cộng sản còn tung ra cái gọi là cải tiến chữ
Việt của Bùi Hiền một du học sinh và là đảng viên đảng CS Trung Quốc để xóa bỏ
chữ Quốc Ngữ, triệt tiêu văn hóa của dân tộc để Hán hóa dân ta.
Đặc biệt mới
đây dư luận xôn xao về tay sai của đế quốc mới Trung Cộng tung tiền ra mua đất
thành lập một hình thức “Đặc Khu Tự trị” ngay trong lòng nước Pháp cùng với sự
thành lập một quốc gia Kinh tộc để trở về đất mẹ Trung Quốc. Đây là kế hoạch hết
sức tinh vi xảo quyệt để thực hiện giấc mộng thế kỷ của Trung Quốc.
Vậy Kinh tộc hay dân tộc Kinh là dân tộc nào mà mỗi người Việt
Nam chúng ta ở miền Bắc thì sau hiệp định Genève 1954 và miền Nam sau khi cộng
sản xâm chiếm 1975 đã bắt chúng ta kê khai lý lịch 3 đời phải ghi là dân tộc
Kinh mà trước đó, chúng ta chỉ ghi là quốc tịch Việt Nam, người Việt Nam…
Tầm nguyên ngữ nghĩa của chữ Kinh chúng ta thấy trong cổ sử Trung Quốc đời
Thương có chép rằng “Vua Cao Tông đời Ân đem quân đánh nước Quỷ Phương, đóng
quân ở Kinh”. Kết quả của các công trình khảo cổ với những di chỉ nền văn hóa
thời cổ đại đã phục hồi sự thật lịch sử là lịch sử Trung Hoa thời cổ đại là lịch
sử của đại tộc Việt, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ cũng đã chứng minh Hoa là Hạ
là Việt là dịch là nhật… Lịch sử Trung Quốc chỉ bắt đầu từ thời Thương đánh chiếm
tiêu diệt nhà Hạ của tộc Việt năm 1766 TDL.
Năm 2005, sau khi nghiên cứu Văn giáp cốt học giả người Đức
đã vẽ bản đồ lãnh thổ Thương bao quanh là các nước Việt. Phía Tây nước Thương
(TQ) là nước Guifang (Quy Phương) ở Thiểm Tây, Nước Laiyi (Lai Di) ở phía Đông,
nước Yufang ở phía Nam giáp với Thương, nước Yifang ở Đông Nam và nước Gui ở Hồ
Bắc lưu vực phía Bắc sông Dương Tử.
Học giả Chang ( Chang Kwung Chih Trương
Quang Trực (1931-2001), gốc Đài Loan, gs khảo cổ tại Yale, Harvard Hoa Kỳ dẫn
Văn giáp cốt đời Thương-Ân, Vũ Đinh vua thứ 22 đời Thương (1250 - 1192 TDL) đã 2 lần
nhắc đến nước Việt (Yufang). Trúc Thư viết “Năm 32, vua Cao Tôn đánh nước Quỷ
Phương, đóng quân ở Kinh…”. Đất Kinh sau này là nước Sở chính là cương giới của
1 nước Việt xưa.
Theo Địa phương chí Du lịch của tỉnh Vũ Hán thì di chỉ Bàn
Long Thành (Thành Rồng nằm) nay thuộc Vũ Hán Hồ Bắc trước là kinh đô của nước
Phương mà sách sử Trung Quốc ghi là nước Quỷ (Gui). Sau khi xâm chiếm các nước
trong cộng đồng Bách Việt ở lãnh thổ Trung Quốc bây giờ, Tàu Hán xưa gọi người
Việt ở vùng Kinh Sở là dân tộc Kinh trong cộng đồng dân tộc Hán. Kinh là cây gai,
cây Đay để làm bao bố, Sở là cây Kinh đực nên Hùng Dịch lấy tên Sở để đặt tên
là nước Sở. Tương truyền đất Kinh Sở có rặng núi Kinh trong đó có núi Việt nên
còn gọi là đất Kinh Việt chuyên trồng loại cây này…
Bách Khoa Toàn Thư Wikipedia do nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam chỉ đạo viết: “Người Kinh, hay dân tộc Kinh (chữ Hán 京族, bính âm:
jīngzú, Hán-Việt: Kinh tộc) là một trong số 56 dân tộc được công nhận tại Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc). Người Việt hay người Kinh là một dân tộc hình
thành tại khu vực địa lý mà ngày nay là miền Bắc Việt Nam và miền nam Trung Quốc.
Đây là dân tộc chính, chiếm khoảng 86,2% dân số Việt Nam và được gọi chính thức
là dân tộc Kinh để phân biệt với những dân tộc thiểu số tại Việt Nam. Ngôn ngữ
chính sử dụng là tiếng Việt theo nhóm Việt-Mường. Người Kinh sinh sống trên khắp
toàn thể nước Việt Nam và một số nước khác nhưng đông nhất vẫn là các vùng đồng
bằng và thành thị trong nước. Còn nếu tính cả hơn 4 triệu người Việt hải ngoại
thì họ định cư ở Hoa Kỳ là đông nhất hơn 1 triệu người”.[4]
Bách Khoa Toàn Thư Wikipedia cũng viết về Kinh tộc Tam đảo
như sau: “Hầu hết cư dân người Kinh ở khu vực Tam Đảo (Vạn Vĩ, Vu Ðầu và Sơn
Tâm) cũng như một vài nơi khác ở Quảng Tây (chủ yếu tập trung tại Đông Hưng) đều
có chung nguồn gốc là người Đồ Sơn (Hải Phòng, Việt Nam) cách đây khoảng 500
năm. Theo điều tra dân số tại Trung Quốc vào năm 2000, dân số người Kinh riêng
tại khu vực nói trên là khoảng hơn 18.000 người …”.
Tại sao nhà nước VNDCCH do Hồ CHí Minh lãnh đạo lại bắt buộc người Việt Nam chúng ta phải ghi trong sơ yếu lý lịch là dân tộc Kinh ?
Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do Hồ Chí Minh lãnh đạo
đã chính thức không cho người dân ghi là dân tộc Việt mà bắt phải ghi là dân tộc
Kinh là một dân tộc thiểu số của Trung Quốc trong các giấy tờ, hộ khẩu, đơn từ.
Theo thống kê của nhà nước CHXHCNVN thì dân số Việt Nam gồm
54 dân tộc trong đó dân tộc Kinh là đông nhất 55.900.244 người, kế tiếp là dân
tộc Tày 1.190.342 người, dân tộc Thái 1.040.549 người và dân tộc Ơđu ít nhất chỉ
còn 32 người.
Đây là một chủ trương phản dân tộc vì trong lịch sử chúng ta là
dân tộc Việt từ thời lập quốc cho tới ngày nay và không thể nào lại có một dân
tộc trong một dân tộc được.
Sách sử Tàu Hán cũng không ghi tên nước Việt dù vua
triều Ân là Vũ Đinh có nhắc tới tên nước Việt nhưng các sử gia Tàu Hán vẫn viết
là Yu, Yufang, Guifang, Gui và An Nam… mãi tới năm 1804, khi vua Gia Long sai
Lê Quang Định đi sứ sang triều Thanh xin đặt tên nước là Nam Việt thì vua Thanh
sợ nhắc tới Nam Việt bất lợi nên đổi lại là Việt Nam… Tên nước, quốc hiệu Việt
Nam mới bắt đầu từ đó…
Theo truyền thuyết khởi nguyên dân tộc cũng như truyền kỳ lịch
sử dân gian, đối chiếu với các nguồn sách sử cổ được xác định bởi các luận chứng
kết quả khoa học thuyết phục thì chúng ta có nhiều chi tộc Việt trong cộng đồng
Bách Việt của chúng ta.
Trong đó chi Lạc Việt là đông nhất 55.900.244 người, kế
tiếp là đồng bào Tày 1.190.342 người, đồng bào Thái 1.040.549 người và chi ít
nhất chỉ còn 32 người mà chúng ta gọi là đồng bào thiểu số là những chi tộc Việt
như đồng bào Mường, Thái, Nùng, Dao, Thổ, Hmong, Giarai, Kaho trong đại chủng
Bách Việt.
Hầu hết các đồng bào thiểu số của chúng ta còn ở lại cư ngụ ở Đông Bắc
và miền Nam lãnh thổ Trung Quốc bây giờ nên kết quả phân tích cấu trúc mã di
truyền chứng minh rằng hơn một nửa dân số gọi là người Trung Quốc là người Việt
cổ có cùng DNA với chúng ta và hoàn toàn khác biệt với Tàu Hán Trung Quốc.
Thực
tế lịch sử cho chúng ta biết rằng còn rất nhiều dòng họ Việt còn sống bên Trung
Quốc bây giờ, tuy gọi là người TQ nhưng đồng bào Việt của chúng ta vẫn giữ
nguyên bản sắc văn hóa truyền thống Việt.
Thời Việt Nam Cộng Hòa chúng ta là người Việt nhưng gọi là đồng
bào Kinh là người ở miền đồng bằng và đồng bào Thượng là đồng bào thiểu số ở
thượng du, cao nguyên để có chủ trương chính sách nhằm nâng đỡ đồng bào thiểu số
của chúng ta mà thôi. Nền đệ nhị Cộng Hòa đã ban hành Quy chế Riêng Biệt để tạo
điều kiện nâng đỡ cho Đồng bào Thiểu số ở VN…
Bài học máu và nước mắt của lịch sử
Bài học máu và nước mắt cho chúng ta thấy rằng trong suốt
trường kỳ lịch sử đế quốc Tàu Hán xưa và đế quốc mới Trung Cộng ngày nay là kẻ
thù truyền kiếp của dân tộc Việt chúng ta. Chúng đã xua quân xâm lược nước ta
26 lần và 9 lần thống trị nước ta trong gần 1000 năm. Tàu Hán không từ một thủ
đoạn quỷ quyệt nào để cấy người, đưa tay sai vào guồng máy lãnh đạo cùng với kế
sách trường kỳ xâm thực văn hóa nhằm xóa bỏ chữ viết, triệt tiêu văn hóa để Hán
hóa dân tộc ta….
Trong lịch sử Việt, người anh hùng dân tộc Triệu Vũ Đế, người
khai mở quốc gia Nam Việt sánh ngang cùng Hán triều phương Bắc khiến Hán văn Đế
phải giao trả toàn bộ vùng Lĩnh Nam để xin được thông hiếu như xưa.
Thế nhưng với
bản chất thâm độc quỷ quyệt, Tàu Hán đã thực hiện quỷ kế để cấy gene Hán vào
dòng máu Việt hầu thống trị dân ta như sau:
“Khi Triệu Vũ Đế mất, Triệu Văn Vương huý là Hồ là con của Trọng Thủy, cháu đích tôn của Triệu Vũ Đế lên thay thì Nam Việt đã suy yếu. Vua Hán sai Trang Trợ sang Nam Việt chiêu dụ Triệu Văn Vương vào chầu. Triệu Văn Vương sai Thái tử Anh Tề sang làm con tin và cáo bệnh tìm cớ thoái thác.
“Khi Triệu Vũ Đế mất, Triệu Văn Vương huý là Hồ là con của Trọng Thủy, cháu đích tôn của Triệu Vũ Đế lên thay thì Nam Việt đã suy yếu. Vua Hán sai Trang Trợ sang Nam Việt chiêu dụ Triệu Văn Vương vào chầu. Triệu Văn Vương sai Thái tử Anh Tề sang làm con tin và cáo bệnh tìm cớ thoái thác.
Thất bại trong âm mưu chiêu dụ Văn vương vào chầu, Hán triều
cho thực hiện một ý đồ thâm độc tinh vi và xảo quyệt hơn. Thật vậy, trong thời
gian Anh Tề ở Trường An, Hán triều đã tạo điều kiện để dàn xếp mối mai một cuộc
hôn nhân dị chủng với Cù Thị người Hán để khi người con sinh ra sẽ có dòng máu
Hán trong người.
Năm Mậu Thìn 113 TDL, Triệu Minh Vương mất, con là Thái Tử Anh
Tề lên ngôi nối ngôi lấy hiệu là Triệu Ai Vương. Vừa lên ngôi, Ai Vương tôn mẹ
(người Hán) là Cù Thị lên làm Thái hậu. Hán triều vội cử An Quốc Thiếu Quý đi sứ
đến Nam Việt. Thiếu Quý trước là người tình của Cù Thị được Hán triều cử sang
Nam Việt với mục đích chiêu dụ Ai Vương đem Nam Việt sát nhập vào Hán theo chế
độ nội thuộc nghĩa là nội chư hầu, cứ ba năm vào chầu một lần, bãi bỏ các cửa
quan ải ngoài biên giới”.
Thừa tướng Lữ Gia biết rõ ý đồ thâm độc của Hán triều nên
tìm cách can ngăn nhưng không được. Hán Đế nghe tin Lữ Gia không nghe theo lệnh
Ai Vương và Thái Hậu thì thế cô, yếu đuối nên không thể chế ngự được nên sai
Hàn Thiên Thu và Cù Lạc, em trai của Thái hậu đem hai ngàn quân tiến vào cảnh vực
nước Việt.
Nghe tin quân Hán tiến sang, Lữ Gia ra lệnh phòng thủ và thông cáo với
người trong nước rằng: “Vua tuổi trẻ mà Thái hậu vốn người Hán lại cùng sứ Hán
dâm loạn, muốn đem nước nhà nội thuộc Hán nên đem hết những bảo khí của Tiên
vương vào dâng cho triều Hán để xiểm nịnh, lại đem nhiều kẻ đi theo đến Tràng
An, bán cho người Hán làm tôi tớ, tự lấy cái lợi ích nhất thời mà không đoái tưởng
đến xã tắc họ Triệu làm ý chí mưu tính muôn đời”.
Lữ Gia cùng người em và nhân dân cả nước nổi lên giết Cù Thị,
Ai Vương và toàn bộ sứ đoàn Hán, đồng thời cho người sang thông báo cho Tần
vương ở Thương Ngô và các quận ấp trong nước hay biết. Lữ Gia cùng triều thần lập
người con trưởng của Triệu Minh Vương mà mẹ là người Việt là Vệ Dương hầu Kiến
Đức lên làm vua.
Bài học lịch sử cấy gene Tàu Hán lại được Đế quốc mới Trung
Cộng áp dụng âm mưu thâm độc Hán hóa dân ta nên khi Nguyễn Tất Thành mạo danh
Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở Trung Quốc thì chính Chu Ân Lai thực hiện mưu đồ
thâm độc quỷ quyệt của Tàu Hán nên đã đứng ra chủ hôn cho Nguyễn Ái Quốc lấy
Tăng Tuyết Minh là một nữ cán bộ Cộng sản người Trung Quốc để sau này có com nối
nghiệp lên lãnh đạo thì đã có nửa dòng máu Tàu trong người để Hán hóa dân tộc
ta…
Khi Nguyễn Ái Quốc chết năm 1932 thì Cộng sản quốc tế và cs
Trung Quốc lại đưa Hồ Quang nhập vai Hồ Chí Minh để Hán hóa dân tộc ta. Thật vậy,
sau khi chiếm toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc, thành lập nhà nước Cộng Hòa Nhân dân
Trung Hoa, Mao Trạch Đông chỉ thị Hồ Chí Minh thực hiện kế hoạch từng bước sát
nhập Việt Nam vào Trung Quốc. Năm 1950, Hồ Chí Minh sang Bắc Kinh xin viện trợ
vũ khí và đề nghị Hồng quân Trung Cộng sang tham chiến. Hồ Chí Minh đã ký “Ghi
nhớ Hợp tác Việt Trung” trong đó điều 3 quy định: “Hai bên thống nhất Việt Nam
dân chủ cộng hòa là một bộ phận của cộng hòa nhân dân Trung Hoa với quy chế của
một liên bang theo mô hình các quốc gia nằm trong Liên Bang Xô Viết”.
Hồ Chí
Minh cam kết chấp nhận Việt Nam là 1 quân khu như quân khu Quảng Châu của Trung
Quốc ngày 12-6-1953 tại Quảng Tây.
Hồ Chí Minh đã ký thỏa thuận giao quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa cho Trung Quốc, sau đó là cả Việt Nam trở thành một bang của Trung cộng theo
mô thức Cộng Hòa Liên Bang Xô Viết sau khi chiếm được toàn cõi Việt Nam.
Biết tập đoàn CSVN đang lâm vào thế khốn cùng sau khi Liên
Sô xụp đổ nên Đế quốc mới Trung Cộng buộc tập đoàn Việt gian CS gồm Phạm văn Đồng,
Nguyễn văn Linh, Đỗ Mười… phải sang Thành Đô ký cam kết mật bán nước ngày
4-9-1990 và tập đoàn Việt gian bán nước do Việt gian Nguyễn Phú Trọng cầm đầu
đang thực hiện những bước cuối cùng biến VN thành một khu tự trị năm 2020.
Ý đồ thâm độc quỷ quyệt của tâp đoàn Việt gian Cộng Sản và đế quốc mới Trung Cộng
Ngay sau khi hạ độc thủ giết Trần Đại Quang, Nguyễn Phú Trọng
gồm thâu quyền lực Tổng Bí Thư kiêm Chủ Tịch nước CHXHCNVN đã bày tỏ lòng trung
thành với “Mẫu quốc” đã cho lưu hành đồng nhân dân tệ của TQ tại 6 tỉnh biên giới,
cho Hải quân NDVN tập trận chung với Hải quân TQ, cử bộ trưởng Quốc phòng Ngô
Xuân Lịch sang tái cam kết “Cùng chung vận mạng”, nguyện làm tiền đồn bảo vệ đất
mẹ TQ… Đồng thời ra quyết định kỷ luật TS Chu Hảo một trí thức yêu nước để trấn
áp mọi mầm mống chống đối của trí thức văn nghệ sĩ…
Nhìn lại toàn bộ tiến trình lịch sử Việt, chúng ta thấy rằng
Tàu Hán xưa và đế quốc mới Trung Cộng ngày nay không từ bỏ ý đồ xâm chiếm thống
trị Hán hóa dân tộc Việt Nam chúng ta. Việc Hồ Chí Minh bắt người Việt Nam
chúng ta phải khai là dân tộc Kinh đến việc ký kết mật ước Thành Đô và mới đây
thành lập cái gọi là quốc gia Kinh tộc trên đất Pháp để chuẩn bị cho việc Nguyễn
Phú Trọng biến Việt Nam thành một khu tự trị năm 2020 lấy tên là “KHU TỰ TRỊ
DÂN TỘC KINH” của Trung Quốc để xỏa bỏ vĩnh viễn chữ VIỆT trong lịch sử!
Chúng ta đã và đang mất nước dần cho đến năm 2020 thì đất nước
Việt Nam sẽ bị xóa tên trên bản đồ thế giới và dân tộc Việt Nam sẽ tiêu vong.
Toàn thể đồng bào Việt Nam trong nước phải đứng lên đáp lời sông núi, đồng loạt
xuống đường trên cả nước để đấu tranh giải thể tập đoàn Việt gian Cộng sản, kẻ
nội thù của dân tộc để toàn dân Việt Nam trong nước và Hải ngoại đoàn kết một
lòng chống quân Tàu Cộng xâm lược.
Thời gian không cho phép chúng ta do dự chần chờ mà phải quyết
tâm hành động, quyết tâm cứu dân cứu nước trước khi đã quá muộn… Chúng ta sẽ đắc
tội với thế hệ con cháu muôn đời sau…
Hỡi toàn thể đồng bào Việt Nam
Tổ Quốc Việt Nam đang Lâm Nguy
Sơn Hà Nguy Biến…
Chín mươi triệu đồng bào Việt Nam khốn khổ đang chờ đợi chúng ta
Giờ Lịch sử đã điểm !!!
Toàn thể đồng bào Việt Nam chúng ta cùng đứng vùng lên đáp lời
sông núi …
Đòi Dân chủ Tự do, Đòi cơm no áo ấm, Đòi quyền sống làm người, bảo vệ sự toàn vẹn
lãnh thổ…
Hồn Thiêng Sông Núi,
Anh linh Anh hùng Liệt nữ sẽ phù trì cho chúng ta…
Tổ Quốc Việt Nam Trường Tồn
Dân Tộc Việt Nam Bất Diệt
Việt Nam Muôn Năm…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét