Trịnh Hữu Long
14-10-2018
14-10-2018
Thông thường, doanh nghiệp Internet chết thì dữ liệu người
dùng chết theo hoặc doanh nghiệp sẽ bán nó cho một doanh nghiệp khác. Tuy
nhiên, dự thảo nghị định hướng dẫn Luật An ninh mạng lại đưa
ra một khả năng khác: doanh nghiệp chuyển giao toàn bộ dữ liệu của tất cả người
dùng cho Cục An ninh mạng thuộc Bộ Công an quản lý.
Điều này được quy định tại Điều 58, Khoản 5 của dự thảo
nghị định:
Theo Điều 54 và 56 của dự thảo nghị định, doanh nghiệp
Internet phải lưu trữ hầu hết dữ liệu của người dùng trong suốt thời gian doanh
nghiệp hoạt động hoặc thời gian cung cấp dịch vụ. Những dữ liệu này bao gồm các
thông tin về nhân thân, số thẻ tín dụng, hồ sơ tài chính, tình trạng sức khoẻ,
hồ sơ y tế, quan điểm chính trị, sinh trắc học, thông tin khởi tạo tài khoản
người dùng, v.v.
Ngoài ra, doanh nghiệp phải lưu trữ các dữ liệu sau trong 36
tháng: nhật ký truy cập, thông tin thanh toán dịch vụ, địa chỉ IP truy cập dịch
vụ, thói quen tìm kiếm, log chat, thời gian giao dịch, thông tin về thiết bị,
thuộc tính, hoạt động, số nhận dạng, tín hiệu, dữ liệu từ cài đặt thiết bị, mạng
và kết nối, và dữ liệu cookie.
Tuy nhiên, liệu Khoản 5, Điều 58 này có thể được hiểu là trước
khi chết hoặc hết thời hạn lưu trữ dữ liệu 36 tháng, doanh nghiệp có nghĩa vụ
chuyển giao dữ liệu của tất cả người dùng cho Cục An ninh mạng không?
Doanh nghiệp có thể cãi rằng Cục An ninh mạng chỉ có thẩm
quyền “tiếp nhận” (theo đúng cách hành văn của dự thảo) nếu doanh nghiệp tự
nguyện và chủ động chuyển giao, thay vì có thẩm quyền “yêu cầu” và “bắt buộc”
doanh nghiệp phải chuyển giao.
Tuy nhiên, việc dự thảo nghị định đề cập đến việc tiếp nhận
dữ liệu do doanh nghiệp chuyển giao cho thấy rằng, Bộ Công an muốn lưu trữ vĩnh
viễn toàn bộ dữ liệu người dùng sau khi doanh nghiệp chết hoặc hết thời hạn lưu
trữ 36 tháng.
Để buộc doanh nghiệp phải chuyển giao dữ liệu, Bộ Công an và
Cục An ninh mạng có thể tìm cách diễn giải nghĩa vụ mơ hồ của doanh nghiệp trong
việc “phối hợp, tạo điều kiện cho lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng
trong bảo vệ an ninh mạng” (Điều 41, Luật An ninh mạng).
Cho dù cách diễn giải của họ có hợp lý hay không, doanh nghiệp
cũng khó mà “cãi” lại được Bộ Công an. Khả năng doanh nghiệp phải chuyển
giao toàn bộ dữ liệu người dùng cho Bộ Công an trước khi khai tử doanh nghiệp/dịch
vụ là cao.
Điều đó có nghĩa là, kể từ thời điểm doanh nghiệp chuyển
giao các dữ liệu trên, Cục An ninh mạng có thể tra cứu toàn bộ dữ liệu của tất
cả người dùng bất cứ khi nào họ muốn mà không cần ra văn bản yêu cầu doanh nghiệp
nữa.
Dự thảo nghị định cũng trao cho Cục An ninh mạng một quyền hạn
rộng lớn hơn rất nhiều so với Luật An ninh mạng.
Điều 26, Luật An ninh mạng, là văn bản cao hơn nghị định, chỉ
cho phép Cục An ninh mạng yêu cầu doanh nghiệp “cung cấp thông tin người
dùng […] để phục vụ điều tra, xử lý hành vi vi phạm pháp luật về an ninh mạng”.
Điều đó có nghĩa là Cục An ninh mạng chỉ có thể yêu cầu
doanh nghiệp cung cấp thông tin của một hoặc một số người dùng cụ thể liên quan
đến những vi phạm cụ thể đang bị điều tra, chứ không được yêu cầu cung cấp dữ
liệu của tất cả người dùng.
Dự thảo nghị định, do đó, là trái luật, vì luật (do Quốc hội
ban hành) là văn bản pháp lý cao hơn nghị định (do Chính phủ ban hành).
Theo Luật
Ban hành Văn bản Quy phạm Pháp luật, khi đã có luật thì nghị định chỉ có chức
năng chi tiết hoá hoặc hướng dẫn thi hành luật chứ không được quy định ngoài phạm
vi của luật.
Nếu không có sửa đổi gì thêm, dự thảo trên sẽ có hiệu lực kể
từ ngày 1/1/2019, cùng thời điểm với Luật An ninh mạng.
(Luật Khoa)
Trí Nhân Media
(Luật Khoa)
Trí Nhân Media
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét