Nối gót người xưa

…. nối gót người xưa
Vì hiểm họa mất nước cùng những khổ đau không ngừng của dân tộc, vì những xót xa quằn quại triền miên của quê hương, vì những máu xương đổ xuống để tạo dựng những trang sử oai hùng đánh đuổi ngọai xâm của tiền nhân, của cha anh, của bè bạn,
Chúng Ta
Hãy đứng lên nhận lãnh trách nhiệm
Hãy đạp lên những sợ hãi mà cùng nhau bước tới, bước tới. Đọc tiếp

TÀI LIỆU header


TÀI LIỆU

Date




_____________________________




HOÀN CẢNH VÀ TÂM SỰ CỦA TRẦN NGUYÊN ĐÁN (1320-1390)

Trần Từ Mai
20-3-2018

Hình bên: Tượng vua Trần Nghệ Tông (Ảnh: Internet)

Lời tác giả: Xin được gửi tới các bạn cùng những vị quan tâm đến quốc sử một bài viết ngắn để giới thiệu một bài thơ của Trần Nguyên Đán, sống vào cuối đời Trần. Ông là ông nội của danh tướng Trần Nguyên Hãn và ông ngoại của anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi.

Bài viết cũng nhằm mục đích thử tìm hiểu tâm trạng Trần Nguyên Đán, nhất là quan niệm "khi thế hệ hiện tại đã không thể làm hơn trước hoàn cảnh, thì nên dồn hết tâm lực vào việc đào luyện thế hệ tiếp nối" của ông. 

*************
Hoàn cảnh và tâm sự của Trần Nguyên Đán (1320-1390)

Trần Nguyên Đán là cháu bốn đời (chắt) của Chiêu Minh đại vương Trần Quang Khải, vị anh hùng phá tan quân Nguyên ở Chương Dương và khôi phục Thăng Long năm 1285. Cuối đời Trần Dụ tông, khi Dương Nhật Lễ muốn dứt ngôi nhà Trần, Trần Nguyên Đán đem quân giúp Trần Nghệ tông (lúc ấy còn là Cung Định vương) dẹp yên. Nghệ tông lên ngôi, phong Trần Nguyên Đán làm Tư Đồ.

Đến cuối đời, Nghệ tông không còn sáng suốt nữa, quá tin dùng và chỉ nghe một người em con cô là Lê Quý Ly (sau lấy lại họ gốc là Hồ Quý Ly). Quý Ly thông minh, có sáng kiến, nhưng nham hiểm, nhiều tham vọng. Trong triều nhiều người khuyên can nhưng nhà vua không nghe, có khi còn đưa những bản sớ ấy cho Quý Ly coi, khiến những người đã can phải sợ hãi, trốn tránh. Sau nhiều lần can gián không hiệu quả, năm 1385 Trần Nguyên Đán cáo quan lui về ẩn ở Côn Sơn. Bài thơ này được làm ra trong hoàn cảnh ấy.


Nhiều sử gia đời sau (Ngô Sĩ Liên, Ngô Thì Sĩ, Trần Trọng Kim) phê phán Trần Nguyên Đán bằng những lời khá nghiêm khắc. Theo các vị, thuộc tôn thất nhà Trần, lẽ ra Trần Nguyên Đán phải chia sẻ mối lo với vua, ở lại tận lực giúp triều đình. Cáo quan lui về là một hình thức trốn trách nhiệm, chỉ nghĩ đến bản thân. Những chê bai ấy không phải là vô căn cứ, nhưng để việc nhận định được công bằng, có một vài sự kiện chúng ta cũng nên xét tới:

1.   Theo Lược truyện các tác gia Việt Nam của Trần Văn Giáp, Trần Nguyên Đán sinh năm 1320. Khi cáo quan về hưu năm 1385, ông đã 65 tuổi. Ở thời trước, tuổi ấy được kể là cao. Tuổi thọ các vua Trần từ Thánh tông đến Dụ tông chỉ từ 33 đến 57. Vị tằng tổ của Trần Nguyên Đán, Chiêu Minh đại vương Trần Quang Khải, cũng chỉ 53 tuổi. Về hưu ở tuổi 65 nên được coi là hợp lý chứ không hoàn toàn chỉ là “trốn trách nhiệm.”

2.   Theo “Băng Hồ di sự lục” do Nguyễn Trãi (cháu ngoại Trần Nguyên Đán) chép,  thì Trần Nguyên Đán cũng từng can vua về chuyện Quý Ly nhưng không thành công:

“Công tuy thân gửi suối rừng mà chí thì ở tông xã, tấm lòng ưu ái chưa một ngày quên. Hoặc đi hoặc ở, khi động khi tĩnh, đều có ý can gián. Rút cục Nghệ tông đều không xét đến. Do đó họ Hồ uy thế càng thịnh, kẻ xu phụ ngày càng nhiều, thế nước ngày càng suy, không làm sao được nữa, cái chí lui về hưu của công mới quyết.”

Tuy trong thân tộc nhà Trần nhưng liên hệ giữa Trần Nguyên Đán với vua Nghệ tông phải đi ngược lại 4 đời (Chiêu Minh đại vương Trần Quang Khải là em vua Thánh tông). Trong khi ấy, thân mẫu vua Nghệ tông là cô ruột Quý Ly (giữa Nghệ tông với Quý Ly có tình anh em con cô con cậu ruột). Nghe lời Quý Ly, nhà vua từng truất ngôi Phế đế Trần Hiện (con vua Duệ tông, cháu gọi Nghệ tông bằng bác ruột) rồi sai người thắt cổ chết. Vì không ưa và ngờ vực Quý Ly, con lớn của Nghệ tông là Trang Định vương Trần Ngạc cũng bị Quý Ly sai người sát hại. Năm 1392, ít năm sau khi Trần Nguyên Đán về hưu, một tôn thất gần Nghệ tông hơn là Trần Nhật Chương mưu giết Quý Ly. Trước khi việc được thi hành, Nhật Chương bị Nghệ tông xử tử. Liên hệ giữa Trần Nguyên Đán với Nghệ tông không được thân bằng mối liên hệ giữa Nghệ tông với các nhân vật kể trên. Ông có nhiều lý do để lo ngại.

3.   Khi Trần Nguyên Đán xin về hưu năm 1385, người cháu ngoại ông rất yêu quý là Nguyễn Trãi đã được 5 tuổi. (Nguyễn Trãi sinh năm 1380 trong dinh thự của Trần Nguyên Đán ở Thăng Long). Thân phụ của Nguyễn Trãi (Nguyễn Ứng Long, sau đổi tên là Nguyễn Phi Khanh), từng được Trần Nguyên Đán nâng đỡ và che chở. Là một thư sinh giỏi, nhà nghèo, Nguyễn Ứng Long được tuyển chọn để kèm học cho tiểu thư Trần Thị Thái, con của Trần Nguyên Đán. Hai người yêu thương nhau, với kết quả là cô Thái thụ thai. Sợ hãi, Nguyễn Ứng Long bỏ trốn. Khi biết chuyện, Trần Nguyên Đán nói, “Vận nước sắp hết, biết đâu chẳng là trời xui nên thế, vị tất không phải là phúc,” rồi cho tìm Ứng Long về, khuyên cố học hành.

Ứng Long cảm kích, chuyên tâm học và thi đỗ nhưng không được bổ dụng vì tội “con thường dân mà dám lấy con nhà quý tộc.” Do từ nhỏ vẫn sống cùng mẹ trong dinh thự của Trần Nguyên Đán, Nguyễn Trãi được ông ngoại chăm sóc việc học. Năm 1385, Trần Nguyên Đán về hưu, cũng là dịp để đem người cháu ngoại mà ông thương mến và rất thông minh về Côn Sơn tiếp tục việc giáo huấn. Suốt thời thơ ấu, Nguyễn Trãi chịu ảnh hưởng sự hướng dẫn của ông ngoại về kiến thức cũng như về tâm hồn.

4.   Cũng theo Nguyễn Trãi trong “Băng Hồ di sự lục,”đến cuối đời Trần Nguyên Đán đau ốm nhưng không uống thuốc. Trước sự nài ép của con cháu, ông nói, “Thời sự như thế, ta được chết là may. Sao còn cầu sống để thấy họa loạn?” Có vẻ như Trần Nguyên Đán tiên liệu trước những việc họ Hồ sẽ cướp ngôi, nước sẽ đại loạn và có thể sẽ mất. Cho rằng thế hệ của ông không còn làm được gì, ông nghĩ đến thế hệ kế tiếp. Cháu ngoại của ông là Nguyễn Trãi và cháu nội của ông là Trần Nguyên Hãn sau đó đã góp sức một cách đáng kể vào việc khôi phục lại đất nước.

5.   Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, có lần vua Nghệ tông đến nhà Trần Nguyên Đán để thăm bệnh và hỏi việc nước nhưng Trần Nguyên Đán không nói gì, chỉ thưa, “Xin bệ hạ kính nước Minh như cha, yêu Chiêm Thành như con thì nước nhà vô sự.” Căn cứ vào chi tiết ấy, sử gia Ngô Sĩ Liên phê bình “chỉ là câu nói tầm thường.” Sử gia Trần Trọng Kim nghiêm khắc hơn, cho là Trần Nguyên Đán “chỉ bàn những chuyện làm tôi tớ, không có chí muốn nước mình cường thịnh.”

Sau khi Trần Nguyên Đán về ẩn dật, năm 1387 Quý Ly được cử làm Đồng Bình Chương Sự, nắm quyền Tể tướng, coi giữ hết mọi việc. Vua Nghệ tông còn sai người vẽ tranh tặng Quý Ly, ví Quý Ly như Chu Công Đán giúp vua Thành vương nhà Chu, như Gia Cát Lượng giúp Hán Hậu chúa đời Tam Quốc, như Tô Hiến Thành giúp vua Cao tông nhà Lý. Khi Nghệ tông đến thăm Trần Nguyên Đán tại nhà riêng, không thể không có tai mắt của Quý Ly theo dõi. Trong hoàn cảnh ấy, Trần Nguyên Đán khó có thể nói những điều ông thực sự muốn nói, có khi chỉ nguy hại cho ông, cho con cháu ông, và cho chính vua Nghệ tông. Trong sử Trung Hoa mà Trần Nguyên Đán chắc chắn thông thạo, không thiếu những trường hợp giả bộ đau ốm nặng hoặc làm ra vẻ già lẫn, gàn dở, để tránh sự nghi kỵ, theo dõi của đối phương.

Để mở đầu bài “Bình Ngô đại cáo,” Nguyễn Trãi đã viết:

“Như nước Việt ta từ trước, 

Vốn xưng văn hiến đã lâu, 

Sơn hà cương vực đã chia, 
Phong tục bắc nam cũng khác. 
Từ Ðinh, Lê, Lý, Trần, gây nền độc lập, 
Cùng Hán, Ðường, Tống, Nguyên, hùng cứ một phương. 
Dẫu cường nhược có lúc khác nhau, 
Song hào kiệt đời nào cũng có…” 

(Bản dịch của Bùi Kỷ, được in trong Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim).

Đọc “Băng Hồ di sự lục,” chúng ta cùng thấy rằng Nguyễn Trãi rất ngưỡng mộ ông ngoại của mình. Người giáo huấn Nguyễn Trãi từ nhỏ và đã gieo ảnh hưởng sâu đậm đến tâm hồn, tư tưởng của tác giả “Bình Ngô đại cáo” khó có thể là người “chỉ bàn những chuyện làm tôi tớ” như lời phê bình có phần hơi quá đáng của học giả Trần Trọng Kim.

Như trên đã thấy, Trần Nguyên Đán không sợ cái chết cho bản thân. Khi lấy hiệu là Băng Hồ, ông mượn ý một câu thơ của Vương Xương Linh, “Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ” (Một mảnh lòng băng trong chiếc hồ bằng ngọc). 

Trong những hoàn cảnh khó xử, khó nói, ông chỉ có thể gửi tâm sự vào thơ. Bài “Dạ quy chu trung tác” được giới thiệu ở trên là một trong những bài như thế. Câu 3 của bài thơ, “Trên chiếc thuyền quay về, chưa yên tâm với giấc mộng sông hồ” đúng là điều sau này Nguyễn Trãi cũng viết ra trong “Băng Hồ di sự lục”: “Công tuy thân gửi suối rừng mà chí thì ở tông xã” (tông miếu, xã tắc, ngụ ý triều đình, đất nước). 

Có một sự kiện chúng ta cũng nên chú ý:
Năm 1428, ngay sau khi đuổi xong quân Minh và công bố "Bình Ngô đại cáo," Nguyễn Trãi đã viết “Băng Hồ di sự lục” để thuật lại cuộc đời của ông ngoại mình.
  
(Nguồn: Blog TranHuyBich)

Trí Nhân Media

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét