Lê Anh Hùng, VOA13-12-2017
Hình bên: Hội nghị Thành Đô đã diễn ra trong bí mật. (VOA)
Hội nghị Thành Đô là một chủ đề gây rất nhiều tranh cãi ở Việt
Nam cũng như trong các cộng đồng người Việt hải ngoại suốt nhiều năm qua.
Chỉ 4 ngày sau khi được Đại sứ Trung Quốc thông báo, ba nhà
lãnh đạo Việt Nam là TBT Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng
đã có mặt tại Thành Đô (thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc) vào đúng ngày Quốc
khánh lần thứ 45, trong khi Đặng Tiểu Bình thậm chí không thèm xuất hiện như lời
hứa hẹn lấp lửng ban đầu.
Cuối thập niên 1980, hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu bắt
đầu chao đảo trước khi sụp đổ hàng loạt.
Về phần mình, mặc dù đã thực hiện cải cách kinh tế từ sau Đại
hội VI nhưng Việt Nam vẫn chưa thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng trầm trọng về chính
trị - kinh tế - xã hội vốn bắt đầu ngay từ năm 1975.
Lo sợ cho số phận của mình và tự huyễn hoặc “dù bành trướng
thế nào thì Trung Quốc vẫn là một nước XHCN”, một số nhân vật chủ chốt trong
ban lãnh đạo CSVN, đứng đầu là TBT Nguyễn Văn Linh, đã quay sang ôm chân các ông
chủ Trung Nam Hải, bất chấp thực tế là trước đó Bắc Kinh đã đánh chiếm toàn bộ
Hoàng Sa năm 1974, phát động cuộc chiến tranh biên giới từ 1979 - 1989, thảm sát
64 quân nhân Việt Nam rồi chiếm đảo Gạc Ma năm 1988.
Mật ước Thành Đô ?
Từ nhiều năm trước, trong dư luận đã lan truyền thông tin rằng
kết quả Hội nghị Thành Đô là một bản mật ước, theo đó lãnh đạo CSVN đề nghị và
lãnh đạo Trung Quốc đồng ý để Việt Nam trở thành một khu vực tự trị của Trung
Quốc.
Đến tháng 5/2014, một số trang mạng thậm chí còn đăng
tải nội dung của bản “mật ước” (được cho là do Hoàn Cầu Thời Báo và Tân
Hoa Xã công bố): “…Và Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu
vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh, như Trung Quốc đã dành
cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây….
Phía Trung Quốc đồng ý và đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên,
và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để Đảng Cộng sản Việt Nam giải quyết
các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung
Quốc.…”
Trong cuốn hồi ký “Hồi ức
và Suy nghĩ” của mình, cựu Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ đã tiết lộ: “Sau
2 ngày nói chuyện (3 - 4/9/1990), kết quả được ghi lại trong một văn bản gọi là
‘Biên bản tóm tắt’ gồm 8 điểm. Khi nghiên cứu biên bản 8 điểm đó, chúng tôi nhận
thấy có tới 7 điểm nói về vấn đề Campuchia, chỉ có 1 điểm nói về cải thiện quan
hệ giữa hai nước mà thực chất chỉ là nhắc lại lập trường cũ của Trung Quốc gắn
việc giải quyết vấn đề Campuchia với bình thường hoá quan hệ giữa Việt Nam và
Trung Quốc.”
Nghĩa là, Hội nghị Thành Đô kết thúc song việc bình thường
hoá quan hệ hai nước, điều mà ban lãnh đạo Việt Nam nóng lòng mong đợi, vẫn chưa
chốt lại được. Vì thế, giả thuyết về bản “mật ước” kia rõ ràng là thiếu cơ sở.
Thậm chí ngay cả “Biên bản tóm tắt” 8 điểm nói trên cũng không
được phía Việt Nam thực hiện đầy đủ. Nguyên nhân chủ yếu là do sự phản đối của
Bộ Ngoại giao dưới quyền Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch, với sự đồng tình của một vài
uỷ viên Bộ Chính trị khác, như Thứ trưởng Trần Quang Cơ đã thuật lại trong hồi
ký. (Trong cuộc họp kiểm điểm về Hội nghị Thành Đô, Phó Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã
nói: “…Mình bị nó lừa nhiều cái quá. Tôi nghĩ Trung Quốc chuyên là cạm bẫy.”)
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh (Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc
từ năm 1974-1987) cho
biết là mặc dù cùng 19 cựu sỹ quan cao cấp khác ký tên vào bản kiến
nghị yêu cầu minh bạch hóa Hội nghị Thành Đô song ông cũng không tin vào thông
tin phía Trung Quốc đưa ra.
Đại tá Nguyễn Văn Tuyến (cán bộ tiền khởi nghĩa và là thành
viên sáng lập CLB chống tham nhũng, tiêu cực của các vị lão thành cách mạng ở Hà
Nội) cho chúng tôi biết là trong một cuộc gặp với Thường trực Ban Bí thư Đinh
Thế Huynh, khi ông đề cập đến “Mật ước Thành Đô”, ông Huynh khẳng định đích thân
ông ta đã vào kho lưu trữ của đảng để tìm nhưng không hề thấy bản “mật ước” đó.
(Lãnh đạo cộng sản nói thì không hẳn là đáng tin, song điều đó không có nghĩa là
họ chưa bao giờ nói thật. Và sự khẳng định của nhân vật số 5 trong ban lãnh đạo
Việt Nam phù hợp với logic ở trên, cũng như với một tài liệu được cho là của
Ban Tuyên giáo Trung ương năm 2014 nhằm
giải thích về Hội nghị Thành Đô.)
Toan tính gì?
“Người Trung Quốc làm gì cũng có tính toán.” Thông tin về “Mật
ước Thành Đô” được Bắc Kinh tung ra ngay giữa lúc họ đưa giàn khoan HD981 vào sâu
trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam từ ngày 2/5 đến
15/7/2014. Rõ ràng, họ muốn qua đó để biện hộ cho hành vi xâm phạm chủ quyền Việt
Nam, gây chia rẽ trong ban lãnh đạo CSVN, khiến người Việt trong và ngoài nước
bị phân hoá, và cuối cùng là làm suy yếu nỗ lực của Hà Nội trong việc chống lại
hành vi ngang ngược đó.
Mặc dù nội dung cụ thể của “Mật ước Thành Đô” được Bắc Kinh “tiết
lộ” vào thời điểm họ đưa giàn khoan HD981 xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của
Việt Nam, nhằm mục đích như chúng tôi đã đã chỉ ra, song thông tin về sự tồn tại
của nó thì đã xuất hiện từ lâu. Vậy động cơ của họ là gì?
Quả thực, không khó để nhận ra toan tính của Bắc Kinh khi cho
lan truyền thông tin về “Mật ước Thành Đô”. Đây thực sự là một mũi tên trúng
nhiều đích theo đúng bản chất “thâm như Tàu” của họ: (i) khiến những người Việt
tâm huyết với công cuộc chống bành trướng Trung Quốc nản lòng (do nghĩ rằng mọi
nỗ lực đều vô ích bởi cái văn kiện bán nước kia); (ii) làm phân tâm những người
chống hiểm hoạ Trung Quốc tại Việt Nam (thay vì lẽ ra cần tập trung vào việc vạch
trần và ngăn chặn bàn
tay tội ác của “nhóm lợi ích Tàu”trong bộ máy hiện hành thì họ lại phung phí
thời gian và công sức vào việc tranh cãi hoặc lên án và đòi bạch hoá một chuyện
không có thật trong quá khứ); và (iii) khiến cho người dân bình thường không
tin tưởng vào truyền thông phi chính thống (khi thấy trên mạng toàn loan truyền
những thông tin nhảm nhí).
Không chỉ nặn ra cái gọi là “Mật ước Thành Đô”, Bắc Kinh thậm
chí còn dựng
lên cả một câu chuyện kỳ bí qua tác phẩm “Hồ Chí Minh sinh bình khảo”
của Hồ Tuấn Hùng. Theo đó, Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc - Nguyễn Tất
Thành - Nguyễn Sinh Cung (nguyên quán Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An), mà là Hồ Tập
Chương, người Đài Loan. (Ngoài những mục đích nêu trên, điều này còn giúp dọn đường
dư luận để “con
ngựa thành Troy” Hoàng Trung Hải ngày càng “chui sâu, leo cao” và cuối
cùng là thâu tóm chiếc ghế Tổng Bí thư.)
Không còn nghi ngờ gì, “Mật ước Thành Đô” là một câu chuyện
bịa đặt nhằm phục vụ mưu đồ đen tối của Trung Nam Hải. Việc nhà cầm quyền CSVN
không công khai Thoả thuận Thành Đô là vì đó không chỉ là một thất bại nhục nhã
trong lịch sử ngoại giao Việt Nam, mà còn là bằng chứng không thể chối cãi về hành
vi “cõng rắn cắn gà nhà”, “rước voi về dày mả tổ” của họ. Chỉ chừng ấy thôi họ đã
bị lịch sử và nhân dân đời đời lên án, chứ đừng nói đến chuyện mưu toan biến Việt
Nam thành một bộ phận của “đại gia đình các dân tộc Trung Quốc”.
Ngoài ra, ngay cả khi “Mật ước Thành Đô” là sự thật đi nữa
thì nó cũng không có giá trị pháp lý, bởi nó không tuân theo những trình tự pháp
lý thông thường của một hiệp ước giữa hai quốc gia. Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười
hoàn toàn không đủ chính danh để đóng dấu hiệu lực vào một hiệp ước vô cùng hệ
trọng như thế. Trong khi đó, những người ký kết “mật ước” đó hoặc đã chết, hoặc
gần như không còn ảnh hưởng trên chính trường, nên nó lại càng vô giá trị.
Trong một bài viết trước đây, chúng
tôi đã chỉ ra rằng, nếu các bản tuyên bố chung Việt - Trung xưa nay luôn được
Hà Nội thực hiện đúng thì Việt Nam đã trở thành “một bộ phận không thể tranh cãi
của Trung Quốc” từ lâu, chứ chẳng cần phải đợi đến khi “Mật ước Thành Đô” được
thi hành. Điều này không xẩy ra bởi thực tế là trong ban lãnh đạo Việt Nam luôn
tồn tại những thành phần ý thức được hiểm hoạ phương bắc mà Bắc Kinh chưa thao
túng được (chẳng hạn như Nguyễn Cơ Thạch và Võ Văn Kiệt trong “Hồi ức và Suy
nghĩ”), bên cạnh áp lực từ một công chúng vốn ngày càng bộc trực và “dị ứng” với
những gì liên quan đến Trung Quốc.
Bất luận thế nào, việc đất nước chúng ta ngày càng bị các gọng
kìm của Đại Hán siết chặt như hiện nay không phải là vì “Mật ước Thành Đô” kia,
mà chính là vì 90 triệu người Việt, đặc biệt là những tinh hoa của giống nòi, đã
làm chưa đủ để bảo vệ giang sơn gấm vóc mà tổ tông đã đổ bao máu xương để dựng
xây, gìn giữ.
Trí Nhân Media
Trí Nhân Media
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét