Trên VOA hôm qua nhà báo Lê Anh Hùng có viết bài “Nên hiểu Mậtước Thành đô như thế nào” ? Theo đó tác giả đối chiếu với một số “sự kiện” là
“lời khai” của các nhân chứng bên VN, rồi cho rằng “mật ước này thiếu cơ sở”...
Tác giả đồng thời cũng cho rằng đó “là một câu chuyện bịa đặt nhằm phục vụ mưu
đồ đen tối của Trung Nam Hải”... nhằm để “tuyên truyền cho giàn khoan HD
981”...
Theo tác giả “Mật ước Thành Đô” nếu là sự thật “thì nó cũng
không có giá trị pháp lý, bởi nó không tuân theo những trình tự pháp lý thông
thường của một hiệp ước giữa hai quốc gia. Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười hoàn toàn
không đủ chính danh để đóng dấu hiệu lực vào một hiệp ước vô cùng hệ trọng như
thế. Trong khi đó, những người ký kết “mật ước” đó hoặc đã chết, hoặc gần như
không còn ảnh hưởng trên chính trường, nên nó lại càng vô giá trị.”
Theo tôi các ý kiến của nhà báo Lê Anh Hùng trong bài viết
này cần phải được thảo luận lại.
“Mật ước Thành đô” được cho là văn kiện ký kết giữa lãnh đạo
đảng và nhà nước CSVN với lãnh đạo TQ từ năm 1990. Vấn đề là đến nay người ta
chỉ nghe nói về mật ước này, chứ chưa thấy ai lên tiếng khẳng định là đã từng
thấy nó.
Trang BBC tiếng Việt đã từng có nhiều bài báo nói về “mật ước
Thành đô”. Đặc biệt bài viết ngày 14 tháng mười năm 2014 ghi nhận tin tức từ
báo chí TQ, trong đó có đoạn dẫn Tân Hoa Xã và Hoàn cầu thời báo. Nội dung
nguyên văn như sau: “Truyền thông Trung Quốc, trong đó có Tân Hoa Xã và Hoàn cầu
Thời báo, đã đưa tin rằng ở cuộc gặp nhằm bình thường hóa quan hệ hai nước
này, các nhà lãnh đạo Việt Nam đã ‘sẵn sàng chấp nhận để Việt Nam làm một
khu tự trị của Trung Quốc’.”
Các cơ quan ngôn luận của VN không có một lời nào về bài báo
của BBC để xác định, hay phủ định nội dung trên Tân Hoa Xã và Hoàn Cầu thời
báo. Ban Tuyên giáo hay phát ngôn nhân Bộ ngoại giao cũng không có lời nào phê
bình chính thức, mặc dầu Tân Hoa Xã là “cái loa chính thức” của đảng và nhà nước
TQ. Ngoài một văn bản “không có địa chỉ nơi gởi” (nói là của ban Tuyên giáo TƯ)
được lưu truyền trên mạng, cho rằng tin tức đó là “bịa đặt, tuyên truyền”.
Nếu xem lại các tài liệu như “Hồi ký Trần Quang Cơ”, ta thấy
nhà ngoại giao này có nói về “hội nghị Thành đô”, nhưng nội dung chỉ xoay quanh
vấn đề Campuchia. Nhiều “nhân chứng” khác phía VN cũng có ý kiến tương tự.
“Mật ước Thành đô” như vậy là hiện hữu. Câu hỏi đặt ra là có
hay không có cam kết “VN làm khu tự trị của TQ”, như Tân Hoa xã và báo chí TQ
đã đề cập ?
Theo tôi thì các nhận xét và kết luận của tác giả Lê Anh
Hùng là khá “chủ quan”. Ta đâu thể chỉ dựa vào “lời khai” của một bên, cũng như
dựa vào một văn bản “không có địa chỉ người gời”, để có thể khẳng định như
“đinh đóng cột” rằng “mật ước Thành đô” là chuyện bịa đặt nhằm phục vụ mưu đồ
đen tối của Trung Nam Hải” ?.
Nói vậy thì những nhà nghiên cứu muốn tìm hiểu sự thật về Hội
nghị Thành đô, hay sự thật về ông Hồ Chí Minh, khi họ sử dụng tài liệu từ phía
TQ, thì họ “phục vụ cho mưu đồ đen tối” của TQ hay sao ?
Đã gọi là “mật ước”, theo tập quán quốc tế, thì cho đến khi
những điều cam kết chưa được hai bên thực hiện đầy đủ, “mật ước” không có lý do
gì phải “bạch hóa” nó.
Đâu phải là không ai thấy nó thì “mật ước” này không có ?
Mật ước Yalta, ký kết giữa lãnh đạo các cường quốc là Joseph
Stalin, Franklin D. Roosevelt và Winston Churchill vào tháng hai năm 1945. Gọi
là “mật ước” vì nội dung không công bố.
Mật ước được “bạch hóa” năm 1951 nhân hội nghị San Francisco
về Nhật Bản. Mật ước quyết định số phận các “vùng lãnh thổ”, quốc gia can dự
vào cuộc đại chiến, đồng thời phân định “vùng ảnh hưởng” của các đại cường thuộc
phe thắng trận. Việc phân chia hai vùng Châu Âu bằng “bức màn sắt” là hệ quả của
mật ước này. Nga và Nhật không đồng ý về số phận quần đảo Kouriles, vì vậy “mật
ước” mới được “bạch hóa”.
Cũng theo tập quán quốc tế, tầm cỡ ông Trần Quang Cơ, thứ
trưởng BNG lúc Hội nghị Thành đô, là “không đủ tư cách” để bàn luận những điều
cơ mật, trọng đại. Chỉ có Đổ Mười, Nguyễn Văn Linh (và Phạm Văn Đồng), những
người lãnh đạo tối cao đảng và nhà nước, là những người có thẩm quyền ký kết một
“mật ước”, với những điều ước mà nội dung liên quan đến những vấn đề thuộc thẩm
quyền của họ.
Ba ông Mười, Linh và Đồng có thẩm quyền ký một hiệp ước có nội
dung “nhìn nhận VN là một khu tự trị của TQ” hay không ?
Người ta hoài nghi điều này có thể xảy ra trong một “quốc
gia bình thường”. Nhưng đối với một chế độ cộng sản thì việc gì cũng có thể.
Năm 1954 Khrouchtchev sáp nhập Crimée vào Ukraine. Năm 1958 Phạm Văn Đồng đã ký
văn bản nhìn nhận Hoàng Sa và Trường Sa, cùng vùng biển chung quanh, là của TQ.
Trước công pháp quốc tế, các văn bản này có giá trị thi hành.
Ý kiến của tác giả Lê Anh Hùng: “Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười
hoàn toàn không đủ chính danh để đóng dấu hiệu lực vào một hiệp ước vô cùng hệ
trọng như thế. Trong khi đó, những người ký kết “mật ước” đó hoặc đã chết, hoặc
gần như không còn ảnh hưởng trên chính trường, nên nó lại càng vô giá trị.”
Theo tôi, kết luận như vậy là không có cơ sở khoa học pháp
lý. Hai ông Mười và Linh là lãnh đạo tối cao về mặt đảng và nhà nước. Hai ông
này (hợp lại) có thể ký mọi văn bản, vì hai ông có thẩm quyền trên mọi vấn đề của
VN. Ngay cả các ông này chết đi, các văn bản ký kết không vì vậy mà “xóa bỏ”. Bởi
vì hai ông này ký với danh nghĩa của “quốc gia VN” chớ không phải với tư cách
“cá nhân”.
Tác giả cũng dẫn sự kiện giàn khoan HD 981, cho rằng ý kiến
“VN làm khu tự trị của TQ” là “bịa đặt tuyên truyền” là “mưu đồ của Trung Nam Hải”.
Theo tôi, đến nước này mà còn nói về “giàn khoan HD 981” mà
bỏ qua việc mở rộng, xây dựng các bãi đá của TQ ở TS thành các cứ điểm quân sự,
là “thấy khói mà không thấy lửa”, thấy diện mà không thấy điểm.
Vụ giàn khoan HD 981 hai bên VN và TQ “diễn tuồng hát bội”,
cho tàu bè xịt nước vào nhau, tuyên bố phản đối này kia… để che dấu một âm mưu
trọng đại. Cùng thời điểm, xích về phía nam, khu vực Trường Sa, TQ ráo riết cho
bồi đắp các bãi đá (chiếm của VN năm 1988). VN không có một lời nào về sự kiện
nay. Cho tới khi, tại diễn đàn Shangri La năm 2015, lãnh đạo các đại cường đều
lên tiếng phản đối việc TQ xây dựng đảo, chi trích việc này làm “nguy hiểm cho
an ninh khu vực”. Trong khi đại tướng Phùng Quang Thanh thì trấn an dư luận,
cho rằng việc đó là chuyện “nội bộ anh em”.
Về ý kiến cho rằng “nếu các bản tuyên bố chung Việt - Trung
xưa nay luôn được Hà Nội thực hiện đúng thì Việt Nam đã trở thành “một bộ phận
không thể tranh cãi của Trung Quốc” từ lâu, chứ chẳng cần phải đợi đến khi “Mật
ước Thành Đô” được thi hành.”
Ý kiến này có lẽ nhằm phản biện bài viết của tôi hôm kia
trên Facebook. Vì tôi dẫn nội dung bản tuyên bố chung VN-TQ ký giữa ông Trọng
và Tập Cận Bình đầu năm 2017 để kết luận rằng ông Nguyễn Phú Trọng “phản bội tổ
quốc”.
Vấn đề là trong tất cả các tuyên bố chung VN-TQ ký kết từ
trước đến nay, ta không thấy bản tuyên bố nào có nội dung tương tự như tuyên bố
2017 ký giữa ông Tập Cận Bình và Nguyễn Phú Trọng. Dẫn lại như sau: "Hai bên cho rằng, Việt Nam và Trung Quốc là hai nước
láng giềng có truyền thống hữu nghị lâu đời,... có chế độ chính trị tương đồng,
... có tiền đồ tương quan, chia sẻ vận mệnh chung…. "
Khi hai quốc gia có “tiền đồ tương quan, khi hai dân tộc có
“vận mệnh chung” thì hai quốc gia đó là một, hai dân tộc đó là một.
Vấn đề là các “tuyên bố chung” có được thực hiện hay không ?
Kiểm chứng lại tất cả các tuyên bố chung đã được công bố, ta
thấy không có điều khoản nào mà không được hai bên “thi hành”.
Việc “thi hành” các điều trong bản “tuyên bố chung” giữa
lãnh đạo đảng luôn được thể hiện qua các hiệp ước, các công ước... do các lãnh
đạo nhà nước ký kết.
Ngay cả những cam kết tệ hại nhứt, như tuyên bố 2008 giữa
Nông Đức Mạnh và Hồ Cẩm Đào, vụ khai thác Bôxit Đắc Nông đã gây thiệt hại cho
VN không kể xiết, về môi trường cũng như về hiệu quả kinh tế. VN không thể
ngưng vì đó là “chủ trương lớn” của đảng.
Các dự án về kinh tế, như dự án “Hai hành lang, một vành đai
kinh tế”, đã khiến các tỉnh như Hải Phòng, các tỉnh khu vực biên giới… hoàn
toàn lệ thuộc vào TQ.
Tôi đề nghị với nhà báo Lê Anh Hùng là hãy rà soát tất cả
các bản tuyên bố chung giữa VN và TQ, rồi đưa ra một nội dung nào tương tự với
tuyên bố 2017 "Hai bên cho rằng, Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng
giềng có truyền thống hữu nghị lâu đời,... có chế độ chính trị tương đồng, ...
có tiền đồ tương quan, chia sẻ vận mệnh chung…. "
Tôi cũng đề nghị rằng, tác giả thử đưa ra một cam kết nào,
trong bất kỳ bản tuyên bố chung nào, mà cam kết này không được hai bên thi
hành.
Theo tôi, muốn bênh vực ông Nguyễn Phú Trọng ta có trăm ngàn
cách. Nhưng đừng bao giờ bênh vực theo kiểu “cầm đèn chạy trước”, hay với những
luận điệu “chụp mũ” người khác là “phục vụ mưu đồ đen tối của Trung Nam Hải”
như vậy.
Trí Nhân Media
Trí Nhân Media
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét