Năm 2012, Xi Jinping (Tập Cận Bình) trở thành người đứng đầu đảng Cộng sản Trung Quốc. Ngay lập tức, Xi đã đẩy mạnh chiêu bài chống tham nhũng với câu khẩu hiệu “đả hổ diệt ruồi”, mà ngay cả người dân Việt Nam cũng nghe quen tai.
Noi theo gương “nước bạn”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng giương cao ngọn cờ chống tham nhũng, “ném chuột không vỡ bình”. Nhưng cho dù là hổ, ruồi, hay chuột, thì sự thật vẫn là năm năm qua, từ 2012-2017, tình hình chống tham nhũng ở cả hai quốc gia đều không được lạc quan cho lắm.
Còn chỉ số của Việt Nam liên tục là 31/100 từ năm 2012 đến
năm 2015, và tăng lên 33/100 năm 2016. Cả hai đều nằm trong nhóm các quốc gia
có tỷ lệ tham nhũng cao, với Việt Nam xếp hạng 113/176 và Trung Quốc xếp hạng
79/176 toàn cầu năm vừa qua.
Công cuộc chống tham nhũng của các vị lãnh đạo quốc gia ở Trung
Quốc và Việt Nam hầu như không khiến cho chỉ số này thay đổi đáng kể. Cả hai nước
đều bị tổ chức Minh bạch Quốc tế xếp
hạng rất thấp ở tất cả các hạng mục khảo sát về tính minh bạch trong
năm 2016.
Trong đó, có mục khảo sát ý kiến của người dân về vấn đề
chính phủ có làm tốt việc kiểm soát tham nhũng hay không, và họ có lạc quan về
tình trạng khắc phục tham nhũng của quốc gia hay không. Từ trả lời của những
người được khảo sát, có 60% người Việt Nam đánh giá chính phủ không kiểm soát tốt
vấn đề tham nhũng, và 3/4 người Trung Quốc cho rằng, tình trạng tham nhũng tại
đây ngày càng tệ hại hơn.
Theo Giáo sư John Lee của Đại học Quốc gia Úc (Australian
National University) và là tác giả cuốn Liệu Trung Quốc có sụp đổ (Will
China Fail), thì tham nhũng là một phần không thể tách rời khỏi mô hình nhà nước
chuyên chế (authoritarian model). Và vì vậy, sở dĩ Trung Quốc không thể kiểm
soát tình trạng tham nhũng, là bởi do mô hình thể chế.
Tại Trung Quốc, Giáo sư Lee đánh giá, nhóm người đầu tiên
trong xã hội được hưởng các đặc quyền từ mô hình phát triển kinh tế và nhận được
các cơ hội mà điều này mang đến, chủ yếu là đảng viên và quan chức nhà nước.
Sau sự kiện Thiên An Môn năm 1989, chính quyền Trung Quốc đã
nhận diện được mối đe dọa tiềm ẩn từ nhóm trí thức trung lưu. Đó là những kẻ sẽ
không còn xem “đảng” là con đường tiến thân duy nhất trong xã hội nữa. Trong bất
kỳ xã hội nào đang thực thi mô hình công nghiệp hóa đất nước một cách thần tốc,
thì thành phần trí thức thành thị sẽ là lực lượng quyết định số phận của các
chính thể chuyên chế, độc tài.
Vì vậy, Giáo sư Lee nhận định, đảng Cộng sản Trung Quốc chỉ
còn cách tạo ra giai cấp tinh hoa ấy từ nội bộ của mình, để củng cố quyền lực
cho đảng và giúp chế độ tồn tại.
Mà để giai cấp này cúc cung tận tụy với đảng, thì phải cho họ
mặc sức tự tung tự tác trong việc lũng đoạn nền kinh tế để mưu lợi riêng. Thế
nên, nếu bây giờ chúng ta bảo rằng đảng Cộng sản phải thiết lập ra một cơ chế
giải quyết dứt điểm và hữu hiệu tình trạng tham nhũng, thì không khác gì bảo họ
phải hủy bỏ toàn bộ chiến lược chính trị nói trên.
Giờ đây, thành công về kinh tế và chính trị đã được xem là
quá mức đan xen lẫn nhau. Một lượng lớn người tham gia chính trị hoặc chọn trở
thành đảng viên, là để mưu cầu lợi ích kinh tế cho bản thân. Đây là một khế ước
xã hội và chính trị có thật giữa đảng cộng sản Trung Quốc và giới tinh hoa.
Theo Báo cáo Hurun chuyên
thống kê về tài sản ở Trung Quốc, trong năm 2015, đã có 203 vị đại biểu Quốc hội
và các nhà lập pháp đứng trong danh sách 1.271 người giàu có nhất tại Trung Quốc,
với tổng số giá trị ròng (net worth) là 463,8 tỷ đô la. 90% tổng số đảng viên
Trung Quốc là những nhà doanh nghiệp và 98% tất cả vị trí lãnh đạo các tập đoàn
lớn đều là những người mang thẻ đảng.
Không có gì đáng ngạc nhiên với những con số này, khi chính
đảng Cộng sản đã và đang dùng lợi ích kinh tế để đổi lại lòng trung thành của đảng
viên. Và con số người xếp hàng đăng ký tham gia vào đảng thì lên đến cả trăm
triệu. Ngày nay, người ta vào đảng là tìm cơ hội “làm giàu không khó” cho bản
thân.
Trong khi đó, theo Giáo sư Lee, từ năm 2013 đến năm 2015, chỉ
có khoảng 200.000 đảng viên bị bắt giữ và kết án vì tội tham nhũng tại Trung Quốc,
và con số này chỉ gần bằng 0,25% tổng số đảng viên tại đây.
Còn tài liệu từ phía Cơ quan chống tham nhũng của Trung Quốc
thì cho biết,
chỉ riêng năm 2015, họ đã xử lý 300.000 quan chức. Theo BBC, Trung Quốc
công bố họ đã xử lý hơn một triệu quan tham từ năm 2014-2016, nhưng đó cũng chỉ
là 1,18% tổng số đảng viên.
Thế nên, ngoại trừ vài cái tên trong các vụ đại án như Bo
Xilai (Bạc Hy Lai) và Zhou Yongkang (Chu Vĩnh Khang), thì rõ ràng là chẳng có
bao nhiêu “hổ và ruồi” đã bị diệt.
Trong một mô hình nhà nước, nơi mà địa vị chính trị – hoặc
đơn giản chỉ là các mối quan hệ chính trị chồng chéo – mới là yếu tố quyết định
cho sự thăng tiến về mặt vật chất trong xã hội, thì tham nhũng là một phần
không thể tách rời.
Giáo sư Lee cho rằng, không thể nào tách tham nhũng ra khỏi
cái cơ chế mà nhóm quyền lực có trong tay tất cả đất đai, vốn liếng quốc gia,
và ngay cả sức lao động của nhân dân, chỉ để phục vụ cho các mục đích cá nhân.
“Đả hổ diệt ruồi” rất có thể là một câu khẩu hiệu êm tai
dùng để vỗ về công chúng trong chốc lát, và còn có tác dụng đe dọa hay triệt hạ
các kẻ đối lập chính trị. Nhưng trên thực tế, chính quyền Xi Jinping không thể
nào ra tay “làm sạch” chính cái cơ chế đang bảo vệ cho đảng của ông ta được. Vì
đảng Cộng sản chỉ có sức hấp dẫn khi nó còn tiếp tục mang lại các lợi ích về kinh
tế cho cùng một đám hổ ấy, cũng như bọn ruồi nhặng bâu theo chúng.
Nếu không, nhóm tinh hoa trong đảng có cần quan tâm rằng lực
lượng chính trị nào đang nắm quyền lãnh đạo đất nước nữa hay không? Không được
đảm bảo về lợi ích kinh tế, Giáo sư Lee nhận định, họ chắc sẽ dám đòi cả nhà nước
pháp quyền, chứ thèm để mắt đến “pháp quyền XHCN” của đảng.
Những giả thuyết và lập luận của Giáo sư Lee về mối tương
quan giữa đảng Cộng sản và thành phần giai cấp được hưởng lợi ích trong xã hội
Trung Quốc là lý do không thể trị dứt nạn tham nhũng, rất có thể sẽ áp dụng được
cho tình hình Việt Nam hiện nay.
Trước hết, dân chúng có thể có ý kiến khác nhau về nhiều vấn
đề, nhưng không ai không đồng ý là quan chức, lãnh đạo Việt Nam rất giàu có. Mà
khối tài sản khổng lồ của họ – những biệt phủ, biệt viện, lô đất vàng, v.v – mỗi
khi bị phanh phui trước dư luận, thường được giải thích rằng, họ có tiền từ việc
bản thân hoặc người nhà “làm kinh tế” mà ra.
Lời giải thích của họ có vẻ khá hợp lý khi đảng Cộng sản Việt
Nam cũng chính là lực lượng lãnh đạo kinh tế quốc gia. Liệu có phải việc đảng
giao phó cho doanh nghiệp nhà nước (DNNN) toàn quyền quản lý các khu vực kinh tế
chủ đạo, đã tạo điều kiện cho các quan chức và người nhà của họ được hưởng lợi
ích từ đó mới trở nên giàu có?
Theo PGS.
TS. Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, DNNN được giao phó nguồn
lực từ vốn liếng và tài nguyên quốc gia, với những ưu đãi, đặc quyền, và hỗ
trợ của nhà nước. Vì vậy, họ có nhiều thuận lợi về đất đai, tiền vốn, và được
giao những dự án lớn, có vị trí độc quyền.
Thế nhưng, tuy DNNN được hưởng nhiều ưu đãi như thế, nhưng
chính thành phần kinh tế này lại “đóng góp” nhiều nhất cho tổng số nợ quốc gia,
vốn đang ngày càng gia tăng.
Các thông tin về những sự cố thất thoát, gây lãng phí, hay
kinh doanh không có hiệu quả, v.v., mà đỉnh điểm là các vụ đại án tham nhũng, từ
PMU18, đến Vinashin, Vinalines, và gần đây là Trịnh
Xuân Thanh – PVC, khiến cho người dân phải đặt câu hỏi, liệu tài sản
tham nhũng của một số quan chức là đến từ số tài sản bị thất thoát này hay
không?
Có lẽ, Việt Nam cũng đang trong cùng một hoàn cảnh với Trung
Quốc khi đứng trước vấn nạn tham nhũng.
Mối quan hệ giữa đảng Cộng sản và nhóm tinh hoa được hưởng lợi
ích chính trị và kinh tế, vốn không thể tách rời khỏi nhau được nữa. Để bảo vệ
cho quyền lực của chính mình, thì đảng bắt buộc phải bảo vệ quyền lợi kinh tế của
nhóm lợi ích, nên không thể nào thẳng tay “ném chuột” khi phải luôn canh cánh nỗi
lo về một nguy cơ “vỡ bình”.
Nguy cơ đó chính là, một khi không còn khả năng đáp ứng cho
giới tinh hoa trong nội bộ của họ quyền lực và lợi ích kinh tế, thì vị trí lãnh
đạo của đảng liệu có thể duy trì tiếp tục được không?
Tài liệu tham khảo:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét