7/07/2017
Trong vụ án của giáo sư Liu Xiaobo (Lưu
Hiểu Ba), nhà đấu tranh dân chủ tại Trung Quốc và khôi nguyên giải Nobel Hòa
bình năm 2010, bằng chứng dùng buộc tội ông âm mưu lật đổ chính quyền là một
tài liệu ông chắp bút cùng một số người khác, có tên là Hiến chương 08 (Charter
08).
*********
HIẾN CHƯƠNG 08
I. Phần mở đầu
Hiến pháp đầu tiên của Trung Quốc đã ra đời đúng 100 năm về
trước; Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền cũng đã tròn 60 tuổi. Bức tường Dân chủ
(Democracy Wall) đã dựng lên được 30 năm; 10 năm đã trôi qua từ khi chính phủ
Trung Quốc ký Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị.
Sau một thời kỳ dài sống cùng những thảm họa về nhân quyền,
đối mặt với chúng bằng những cuộc đấu tranh cam go và khốn khổ, những người
Trung Quốc nào đã thức tỉnh sẽ ngày càng có thêm nhận thức để khẳng định rằng,
tự do, bình đằng, và nhân quyền chính là những giá trị phổ quát mà nhân loại
chia sẻ; và rằng dân chủ cùng một nền cộng hòa lập hiến là những thiết chế căn
bản của văn hoá chính trị hiện đại.
Những kẻ muốn tìm cách “hiện đại hóa” việc tước đoạt những
giá trị phổ thông này và các cơ chế chính trị dân chủ căn bản sẽ dẫn đất nước
tiếp tục đi trên một quy trình đầy thảm họa, vì nó ngăn cản người dân thực hiện
các quyền tự do, làm mục rữa lòng nhân bản trong họ, và hủy diệt phẩm giá của mỗi
người.
Trung Quốc trong thế kỷ 21 sẽ đi về đâu? Liệu Trung Quốc sẽ
tiếp tục mô hình “hiện đại hóa” này trong một chế độ toàn trị, hay là chúng ta
sẽ ủng hộ những giá trị chung của nhân loại, hòa vào dòng chảy của văn minh, và
xây dựng một mô hình nhà nước dân chủ?
Đây là một việc mà chúng ta không thể né tránh và phải quyết
định.
Những thay đổi mang tính cách lịch sử từ giữa thế kỷ 19 đã
bóc trần những ung nhọt của xã hội phong kiến Trung Hoa, đánh dấu sự mở màn của
những chuyển biến vĩ đại nhất mà chúng ta có thể nhìn thấy được tại đất nước
này sau hàng nghìn năm.
Phong trào Tự cường (1861-1895) đã mang lại những tiến bộ
cho năng lực kỹ thuật của chúng ta, qua việc học hỏi những phương pháp sản
xuất, các kiến thức khoa học, và cả kỹ thuật quân sự từ phương Tây.
Sự kiện Trung Hoa thua trận trong trận chiến Thanh-Nhật
(Sino-Japanese War 1894-1895) một lần nữa phơi bày tính lỗi thời của hệ thống
phong kiến; cuộc Cải cách 100 ngày (Hundred Days’ Reform 1898) đã khai mở một
không gian cách tân cho các thiết chế xã hội, cho dù nó đã kết thúc trong
sự đàn áp tàn khốc của phe thủ cựu ở triều đình nhà Thanh.
Ngoài mặt, Cách mạng Tân Hợi (1911) chính là sự cáo chung của
chế độ phong kiến kéo dài hơn 2.000 năm và mở đầu cho nền cộng hòa đầu tiên ở
Đông Á. Thế nhưng, do những yếu tố đặc thù của những vấn nạn trong ngoài tại thời
khắc đó của lịch sử mà thể chế cộng hòa non trẻ ấy đã nhanh chóng chấm dứt. Để
rồi chế độ chuyên quyền đã trở lại cai trị Trung Hoa.
Sự thất bại trong việc mô phỏng các công nghệ và cải cách thể
chế đã khiến cho rất nhiều người Trung Hoa khi ấy phải tự nhìn nhận lại một
cách sâu sắc về cội nguồn của những căn bệnh xã hội trong văn hóa của chúng ta.
Từ đó, chúng ta đã nhìn thấy được sự khởi xướng của những phong trào Ngũ tứ
(May Fourth 1919) và Tân Văn hóa (New Culture 1915-1921) dưới lời kêu gọi “khoa
học và dân chủ.”
Đáng tiếc là con đường dân chủ hóa ở Trung Hoa đã bị bóp chẹt
một cách tàn bạo bởi cả những cuộc nội chiến lẫn các cuộc xâm lăng.
Quy trình thiết lập một nhà nước lập hiến đã bắt đầu được
hình thành ngay sau khi Trung Hoa giành được chiến thắng trong cuộc chiến
Trung-Nhật (1937-1945). Thế nhưng, kết quả của cuộc nội chiến giữa hai phe Quốc
dân đảng và Cộng sản đã đẩy Trung Hoa xuống tận sâu đáy vực của một chế độ độc
tài trong thời hiện đại.
Đất nước “Trung Quốc” thành lập vào năm 1949 tuy mang tiếng
là “nền cộng hòa nhân dân”, nhưng trong thực tế đó là một mô hình “đảng trị”.
Là nơi mà đảng cầm quyền được độc quyền về tất cả mọi mặt trong đời sống người
dân: chính trị, kinh tế, và tài nguyên xã hội.
Mô hình nhà nước đó đã kéo đến một chuỗi dài những thảm họa
về nhân quyền. Đó là cuộc Vận động Phản hữu (Anti-Rightist Campaign), Đại nhảy
vọt (Great Leap Forward), Cách mạng Văn hoá, Thảm sát Thiên An Môn, các chiến dịch
đàn áp không chính thức đối với các hoạt động tôn giáo và phong trào duy quyền,
gây ra hàng chục triệu cái chết.
Người dân và đất nước này đã phải trả giá quá đắt.
Giai đoạn “Đổi mới và Mở cửa” của những thập kỷ cuối thế kỷ
20 đã kéo Trung Quốc thoát khỏi chế độ độc tài chuyên chế và sự nghèo đói dai dẳng,
xuyên suốt thời đại Mao Trạch Đông, qua sự thay đổi rõ rệt về mức độ tài sản cá
nhân, cũng như tiêu chuẩn đời sống của người dân.
Quyền tự do của nền kinh tế cá thể và các đặc quyền xã hội
được trả về vị trí cũ, xã hội dân sự bắt đầu hình thành, và những lời kêu gọi về
nhân quyền và tự do chính trị từ phía người dân cũng dần gia tăng.
Những người nắm giữ quyền lực, trong khi thực thi các chính
sách cải cách kinh tế, thị trường và quyền tư hữu, cũng đã bắt đầu thay đổi
thái độ đối với các quyền con người. Thay vì thẳng thừng từ chối chúng như trước
đây, thì nay họ đã bắt đầu nhìn nhận các quyền này.
Trong hai năm 1997 và 1998, chính quyền Trung Quốc đã ký hai
công ước quốc tế quan trọng về quyền con người. Năm 2004, Quốc hội Trung Quốc
cũng đã sửa đổi Hiến pháp để đưa vào đó việc nhà nước “tôn trọng và đảm bảo quyền
con người” của người dân. Và năm nay, chính quyền cũng đã hứa hẹn sẽ tiến hành
thực hiện một “Chương trình hành động về Quyền con người” trên toàn quốc.
Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại, thái độ cấp tiến về
chính trị này hầu như vẫn chỉ nằm trên giấy: luật về quyền con người thì có đấy,
nhưng nhà nước pháp quyền thì vẫn chưa xuất hiện. Chúng ta có một bản Hiến
pháp, nhưng không có một nhà nước lập hiến.
Đây vẫn là một thực trạng hiển nhiên về toàn cảnh nền chính
trị của chúng ta.
Giai cấp lãnh đạo vẫn nhất quyết sử dụng sự toàn trị của họ
để nắm giữ quyền lực, thẳng thừng từ chối mọi kiến nghị về thay đổi chính trị.
Điều này đã dẫn đến sự tha hóa của nhà nước, để họ có thể mặc nhiên gây khó dễ
cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền, từ chối công nhận các giá trị nhân quyền,
dẫn đến sự băng hoại đạo đức, phân cực xã hội, phát triển bất bình thường về mặt
kinh tế, hủy diệt cả môi trường tự nhiên lẫn không gian văn hóa.
Chúng ta hiện nay không có một cơ chế nào có thể đảm bảo rằng
người dân có thể hưởng được các quyền tự do, quyền tư hữu, và quyền được mưu cầu
hạnh phúc. Tất cả những điều này dẫn đến sự tích lũy âm ỉ của đủ loại mâu thuẫn
trong xã hội, khiến cho bạo lực ngày càng có xu hướng gia tăng.
Nói một cách chính xác, đó là sự đối kháng mãnh liệt giữa
chính quyền và người dân, và chúng ta nhìn thấy điều đó qua những con số của
các cuộc biểu tình lôi kéo được số đông tham gia.
Điều này cho thấy sự mất kiểm soát thê thảm từ phía chính
quyền đang dần hình thành, và gợi ý với chúng ta rằng, tình trạng lạc hậu của
thể chế hiện nay đang tiến đến một điểm mà sự thay đổi nhất định sẽ xảy ra.
II. Những khái niệm căn bản
Tại thời điểm giao thoa mang tính quyết định cho tương lai
và số phận của Trung Quốc, điều chúng ta cần làm là nhìn lại các nỗ lực của những
quá trình hiện đại hóa đất nước hàng trăm năm vừa qua để tái khẳng định những
khái niệm sau:
Tự do: Tự do là cốt lõi của những giá trị phổ quát. Các
quyền tự do ngôn luận, xuất bản, quyền được có tự do tín ngưỡng, tụ tập, biểu
tình, lập hội, đình công, tuần hành đều là những biểu hiện cụ thể của tự do.
Nơi nào mà tự do không thể sinh sôi nảy nở thì nơi đó cũng không còn là một nền
văn minh hiện đại đáng được nhắc đến.
Quyền con người: Quyền con người, hay nhân quyền không
phải là thứ mà nhà nước có quyền ban tặng cho chúng ta. Mà đó là những quyền
mà mỗi người sinh ra vốn đã nắm trong tay. Đảm bảo quyền con người của mỗi người
dân vừa là mục tiêu quan trọng nhất của một thể chế, vừa là nền tảng của tính
chính danh về quyền lực, giúp cho nhà nước có thể đại diện người dân. Điều này
cũng là đòi hỏi căn bản của chính sách “đặt người dân trước hết.”
Những thảm họa chính trị tiếp nối nhau tại Trung Quốc đều có
liên quan mật thiết đến việc đảng cầm quyền đã bỏ mặc việc thực thi nhân quyền
của người dân.
Nhân dân mới là rường cột của nước nhà, chính quyền được lập
ra là để phục vụ người dân, chính phủ chỉ có thể tồn tại khi nó hoạt động vì
người dân.
Bình đẳng: Sự chính trực, phẩm giá, và tự do của mỗi cá
nhân là bình đẳng như nhau, không màng địa vị xã hội, nghề nghiệp, giới tính,
điều kiện kinh tế, sắc tộc, màu da, tín ngưỡng, hay quan điểm chính trị. Nguyên
tắc về bình đẳng trước pháp luật cho mỗi một người, cũng như những nguyên tắc về
bình đẳng xã hội, kinh tế, văn hóa, và quyền chính trị của tất cả công dân phải
được thực thi.
Chủ nghĩa cộng hòa: Chủ nghĩa cộng hòa (Republicanism)
là một hệ thống lãnh đạo đất nước cộng hưởng để hướng đến việc xã hội chung sống
trong hòa bình. Đó là tam quyền phân lập, kiểm soát và cân bằng những nhóm lợi
ích khác nhau trong xã hội. Đó là một cộng đồng với sự đa dạng về lợi ích, các
nhóm xã hội, với văn hóa đa nguyên và đa tín ngưỡng, kiếm tìm một phương thức xử
lý các chính sách công dựa trên nền tảng của sự cạnh tranh công bằng, thảo luận
chung, và sự tham gia đầy đủ của mọi công dân.
Dân chủ: Có một định nghĩa rất căn bản: chủ quyền quốc
gia thuộc về nhân dân và chính phủ là do người dân bầu ra. Một nền dân chủ thường
có những đặc tính sau.
1) Tính chính danh của các quyền lực chính trị đến từ người dân;
nguồn gốc của quyền lực chính trị chính là người dân. 2) Kiểm soát quyền lực
chính trị được thực thi qua việc người dân sử dụng quyền được chọn lựa của
mình. 3) Công dân phải được hưởng quyền bầu cử thật sự; tất cả các vị trí lãnh
đạo nhà nước phải là sự lựa chọn của chính người dân và được tổ chức thường
xuyên. 4) Tôn trọng ý kiến của phe đa số những vẫn phải bảo vệ quyền con người
của các nhóm thiểu số.
Nói tóm lại, thể chế dân chủ chính là một phương tiện hiện đại
và công khai để có thể tạo ra một chính phủ “của dân, do dân, và vì dân.”
Chủ nghĩa lập hiến: Chủ nghĩa lập hiến
(Constitutionalism) là nguyên tắc để bảo đảm rằng, những quyền tự do căn bản của
người dân được định nghĩa trong Hiến pháp phải được bảo vệ bởi các thiết chế luật
pháp của một nhà nước pháp quyền. Việc này đồng nghĩa với việc phải kiểm soát
và giới hạn quyền lực và hành vi của nhà nước, cũng như định ra các thiết chế hợp
lý và rõ ràng để thực thi các điều này.
III. Những quan điểm cơ bản
Vậy nên, trong tinh thần trách nhiệm và xây dựng của những
công dân, chúng tôi sẽ nói rõ các quan điểm của mình một cách chi tiết, đối với
các vấn đề hành chính công, quyền lợi công dân, và phát triển xã hội tại Trung
Quốc.
1. Sửa đổi Hiến pháp: Dựa trên những giá trị và khái niệm
đã được trình bày ở trên, Hiến pháp phải được sửa đổi để xóa bỏ những mệnh đề
nào không tuân thủ với nguyên tắc chủ quyền nhân dân. Để từ đó, Hiến pháp sẽ thực
sự trở thành một văn bản đảm bảo quyền con người và cho phép công dân thực hiện
quyền của mình. Hiến pháp sẽ trở thành văn bản pháp luật quyền lực nhất mà
không một cá nhân, tổ chức, hay đảng chính trị nào có thể vi phạm. Và Hiến pháp
sẽ trở thành nền tảng của quyền lực pháp lý cho công cuộc dân chủ hóa ở Trung
Quốc.
2. Phân bổ quyền lực, thực hiện kiểm soát và cân bằng: Tổ
chức một mô hình chính phủ hiện đại với tam quyền phân lập để đảm bảo việc kiểm
soát và cân bằng các nhánh lập pháp, tư pháp, và hành pháp. Thiết lập những
nguyên tắc về các đạo luật hành pháp và chính phủ trách nhiệm nhằm tránh xảy ra
việc bộ máy hành pháp trở nên quá kềnh càng. Chính phủ bị buộc chịu trách nhiệm
với tiền thuế của người dân, thiết lập hệ thống kiểm soát và cân bằng quyền lực
giữa địa phương và trung ương, quyền lực của chính quyền trung ương được định
nghĩa rõ ràng tại Hiến pháp để các địa phương có được quyền tự chủ.
3. Tổ chức hệ thống lập pháp dân chủ: Các cơ quan lập
pháp ở mọi cấp đều do người dân bầu trực tiếp, đảm bảo nguyên tắc công bằng và
bình đẳng khi làm ra luật và thực thi một nền dân chủ lập pháp.
4. Tư pháp độc lập: Ngành tư pháp không phụ thuộc vào
quan hệ đảng phái và hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi đảng chính trị, và là một
hệ thống tư pháp độc lập nhằm đảm bảo công lý. Một tòa bảo hiến và một hệ thống
chuyên phụ trách các vấn đề vi phạm Hiến pháp phải được thành lập để giữ vững
quyền lực của Hiến pháp. Ngay lập tức xóa bỏ các uỷ ban chính trị và tư pháp
các cấp của đảng Cộng sản vì chúng là mối hiểm họa của một nhà nước pháp quyền.
Nghiêm cấm sử dụng các thiết chế công cho việc tư.
5. Những thiết chế công phải thuộc quyền sử dụng chung: Quân
đội phải nằm dưới sự quản lý của chính phủ. Các quân nhân và tướng lĩnh chỉ
trung thành với Hiến pháp và tổ quốc. Tất cả các đảng phái chính trị phải rút
khỏi quân đội; nâng cao tính chuyên nghiệp của quân đội. Tất cả nhân viên chính
phủ, kể cả công an, đều là những người nên giữ một lập trường chính trị trung
dung. Bãi bỏ những quy định mang tính kỳ thị trong việc bổ nhiệm nhân viên nhà
nước chỉ dành riêng cho đảng viên. Nhân viên chính phủ nên được bổ nhiệm với một
tinh thần bình đẳng, không phân biệt đảng phái chính trị.
7. Bầu cử cho các chức vụ nhà nước: Hoàn toàn thực thi
một chế độ bầu cử dân chủ để người dân có thể thực sự thực hiện quyền bầu cử trực
tiếp, “một người dân, một lá phiếu”. Dần thay đổi một cách có hệ thống đối với
tất cả chức vụ lãnh đạo hành pháp, để họ là do nhân dân bỏ phiếu trực tiếp bầu
ra. Các cuộc bầu cử đúng luật cho những chức vụ công , với sự cạnh tranh công bằng
của các ứng cử viên cùng với việc người dân được tham gia là một phần không thể
tách rời của các quyền con người căn bản.
8. Đảm bảo sự bình đẳng giữa nông thôn và thành thị: Bãi
bỏ việc thực hiện hai giai cấp – thành thị và nông thôn – trong chế độ hộ khẩu
hiện hành, để đảm bảo các quyền hiến định của mọi công dân trước pháp luật,
trong đó có quyền tự do đi lại, cư trú.
9. Tự do lập hội: Đảm bảo mọi công dân đều có quyền lập
hội. Thay đổi chế độ đăng ký hiện hành, bãi bỏ việc yêu cầu các tổ chức cần phải
có sự chấp thuận của các đơn vị địa phương. Thay vào đó, việc đăng ký chỉ nên
đơn giản là một hệ thống lưu trữ hồ sơ. Bãi bỏ các quy định kiểm soát đảng phái
chính trị. Các hoạt động của các đảng phái chính trị chỉ cần tuân thủ theo Hiến
pháp và pháp luật; bãi bỏ chế độ ưu tiên một đảng được độc quyền chính trị; thực
hiện các nguyên tắc về tự do hoạt động đảng phái và tạo điều kiện cho các đảng
phái được cạnh tranh công bằng; bình thường hóa và công nhận tính pháp lý của
việc hoạt động đảng phái chính trị.
10. Tự do tụ tập: Các quyền tự do tụ tập, tuần hành, biểu
tình, và thể hiện quan điểm là các quyền tự do căn bản của người dân dựa trên
Hiến pháp. Vì vậy, khi người dân thực hiện các quyền này, họ không thể bị đàn
áp bởi những hành vi vi hiến của đảng cầm quyền và nhà nước.
11. Quyền tự do biểu đạt: Công nhận các quyền tự do
ngôn luận, tự do in ấn và xuất bản, cũng như tự do học thuật để đảm bảo công
dân có quyền được biết và giám sát các hoạt động của chính phủ. Ban hành các điều
luật mới để đảm bảo các quyền tự do báo chí, xuất bản; xoá bỏ các lệnh kiểm duyệt
thông tin, bãi bỏ các điều luật “âm mưu lật đổ nhà nước” trong Bộ luật Hình sự
và chấm dứt việc trừng phạt việc thực hành tự do ngôn luận như một tội hình sự.
12. Quyền tự do tôn giáo: Đảm bảo quyền tự do tôn giáo
và tín ngưỡng, thực hiện việc phân rõ tôn giáo và chính phủ để các hoạt động
tôn giáo và tín ngưỡng không phải chịu sự kiểm soát của nhà nước. Nghiên cứu và
xóa bỏ tất cả các đạo luật hành pháp, quy định hành pháp và các điều luật địa
phương liên quan đến việc kiểm soát và ngăn cản công dân thực hiện quyền tự do
tín ngưỡng. Chấm dứt việc quản lý các hoạt động tôn giáo của nhánh hành pháp.
Bãi bỏ chế độ quy định các tổ chức tôn giáo (và các nơi thờ phụng) phải xin
phép và thay vào đó là một hệ thống lưu trữ thông tin.
13. Tổ chức việc giáo dục dân quyền: Bãi bỏ hệ thống
giáo dục và thi cử dựa trên các chủ thuyết và lý tưởng của một đảng chính trị
duy nhất. Tiến hành thực thi rộng rãi giáo dục dân quyền về các giá trị phổ
quát và quyền tự do, để từ đó xây dựng một xã hội có nhận thức về dân quyền, đạo
đức và tiến bộ.
14. Bảo vệ quyền tư hữu: Thiết lập một hệ thống dựa
trên nền kinh tế tự do và cởi mở để bảo vệ quyền tư hữu của người dân, bằng
cách bảo đảm tự do về quyền kinh doanh và dẹp bỏ các công ty độc quyền của nhà
nước. Thay vào đó, thành lập một Ủy ban về Quản lý các Tài sản công của đất nước,
chịu trách nhiệm trước công chúng. Thực hiện cải cách về quyền tư hữu một cách
có hệ thống với các điều luật rõ ràng, hợp lý, thực hiện cải cách đất đai để thực
sự công nhận quyền sở hữu đất của công dân, đặc biệt là đất nông nghiệp.
15. Cải cách công khố: Dân chủ hóa hệ thống tài chính
công và đảm bảo quyền của người đóng thuế. Tiến hành thực hiện các khuôn mẫu và
hệ thống của một hệ thống tài chính công với những định nghĩa rõ ràng về trách
nhiệm và quyền lực của nó. Đồng thời, phải thiết lập một hệ thống hữu ích, hợp
lý để phân bổ quyền lực tài chính giữa các cấp bậc khác nhau trong chính phủ.
Tiến hành cải cách hệ thống thuế một cách rộng lớn trên toàn
quốc, nghiêm túc xem xét việc giảm mức thuế, đơn giản hóa hệ thống thuế và cân
bằng nghĩa vụ và trách nhiệm giữa các bên. Các ban ngành chính phủ không thể tuỳ
tiện tiến hành gia tăng mức thuế mà không bị trừng phạt bởi một quy trình công
khai và dựa trên ý nguyện của người dân.
Thông qua những đề xuất cải cách quyền tư hữu để đa dạng hóa
cũng như giới thiệu những cơ chế cạnh tranh vào thị trường, hạ chuẩn những quy
định của lĩnh vực tài chính để tạo điều kiện phát triển cho các công ty tư nhân
nhằm đẩy mạnh tối đa nguồn năng lượng của hệ thống tài chính.
16. An sinh xã hội: Thiết lập một hệ thống an sinh xã hội
để đảm bảo tất cả công dân đều nhận các quyền lợi về giáo dục, chăm sóc y tế,
việc làm, và hưu trí.
17. Bảo vệ môi trường: Bảo vệ môi trường sinh thái, cổ xúy
phát triển bền vững, và chịu trách nhiệm trước các thế hệ tương lai và toàn
nhân loại; làm rõ và đặt ra các quy chuẩn trách nhiệm của các cấp chính quyền
nhà nước, đồng thời cổ xúy việc tham gia và giám sát của các nhóm xã hội dân sự trong
việc bảo vệ môi trường.
18. Cộng hòa liên bang: Nhận nhiệm vụ đảm bảo hòa bình
và phát triển trong khu vực với một tinh thần bình đẳng và công bằng, tạo dựng
một hình ảnh quyền lực nhưng có trách nhiệm qua việc bảo vệ các thể chế tự do ở
Hong Kong và Macau.
Trong tinh thần tự do và dân chủ, tiến hành kế hoạch hòa giải
giữa đại lục và Đài Loan qua những cuộc thương thảo công bằng và với sự hợp tác
chặt chẽ. Tìm hiểu một cách khôn khéo tất cả những phương án và mô hình về các
thiết chế có thể tạo ra được sự thịnh vượng chung cho mọi sắc tộc, để từ đó tiến
đến việc xây dựng Cộng hòa liên bang Trung Quốc dựa trên khuôn mẫu của một nhà
nước lập hiến và dân chủ.
19. Công lý chuyển tiếp: Phục hồi danh dự và tiến hành
bồi thường cho cá nhân và gia đình của những người đã phải chịu sự bức hại vì
quan điểm chính trị của mình trong những phong trào xã hội vừa qua; trả tự do
cho tất cả các tù nhân chính trị và tù nhân lương tâm; trả tự do cho những ai bị
bỏ tù vì niềm tin và lý tưởng; lập ra một Ủy ban Điều tra để tìm hiểu về sự thật
của những sự kiện lịch sử, xác định những người phải chịu trách nhiệm, và
giương cao công lý. Để từ đó, tìm kiếm sự hòa giải xã hội dựa trên nền tảng
này.
IV. Kết luận
Trung Quốc, một nước lớn trên thế giới, là một trong năm
thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an LHQ, và là một thành viên của Hội đồng
Nhân quyền. Vì vậy, Trung Quốc cần phải đóng góp vào công cuộc thiết lập nền
hòa bình cho nhân loại và tạo ra sự tiến bộ về nhân quyền.
Đáng tiếc, là trong tất cả các nước lớn nhất thế giới hiện
nay, Trung Quốc là nước duy nhất vẫn muốn tiếp tục bám víu vào chủ nghĩa toàn
trị. Và từ đó, trói buộc người dân vào một vòng nô lệ của những thảm họa về quyền
con người và khủng hoảng xã hội, ngăn cản sự phát triển và cản trợ sự tiến bộ của
văn minh nhân loại.
Tình trạng này cần phải thay đổi!
Chúng ta không thể chờ đợi công cuộc dân chủ hóa và cải cách
chính trị thêm được nữa.
Vì vậy, trong tinh thần dân quyền, dám nói dám làm, chúng
tôi công bố Hiến chương 08.
Chúng tôi hy vọng rằng những người dân Trung Quốc nào chia sẻ
cùng một nỗi lo về tình hình đất nước, cảm nhận được trách nhiệm và sứ mạng của
chúng ta, bất kể là quan chức chính phủ hay một người dân thường và từ mọi giai
cấp xã hội, sẽ bỏ qua những khác biệt và tìm kiếm điểm chung để đến với nhau.
Rồi từ đó, chúng ta có thể cùng xây dựng một phong trào công
dân hành động, cổ xúy những sự thay đổi to lớn cho xã hội Trung Quốc để nhanh
chóng xây dựng một nhà nước lập hiến tự do và dân chủ.
Điều này cũng chính là những khát vọng và mơ ước mà thế hệ
cha ông chúng ta đã không ngừng theo đuổi trong hơn 100 năm qua.
—
Ghi chú: Bài viết này đã có sửa đổi sau lần đăng đầu
tiên vào ngày 7/7/2017, và “Hiến chương số 8” đã được sửa thành “Hiến chương
08”. Tên gọi của Hiến chương 08 trong tiếng Trung là Linh bát Hiến chương (零八宪章) vì đã được
công bố vào năm 2008. Luật Khoa tạp chí và người dịch xin chân thành
cảm ơn độc giả Ivan Nhieukhekov.
(Luật Khoa)
Trí Nhân Media
(Luật Khoa)
Trí Nhân Media
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét