Vũ Thạch
9-11-2016
Thủ tướng Mã Lai Najib Razak vừa ký kết các giao ước trị giá
34 tỷ mỹ kim với Trung Quốc chưa ráo mực, lập tức vang lên hàng loạt tiếng kêu
báo động ông Najib đang "bán nước". Đặc biệt trong những tiếng báo động
là lời của cựu thủ tướng Mohamad Mahathir.
Chỉ mới 5 tháng trước, cũng chính ông Mahathir kêu gọi đương
kim Thủ tướng Najib hãy từ chức khi cơ quan điều tra rửa tiền của Hoa Kỳ, theo
yêu cầu của các NGO Mã Lai, đưa ra bằng chứng cho thấy ông Najib đã lén chuyển
tiền từ quĩ đầu tư quốc gia về túi riêng và túi của đảng ông.
Nhưng nếu ôn lại sự nghiệp chính trị của Thủ tướng Mahathir
trong suốt 22 năm nắm quyền (1981 - 2003), khó ai có thể phủ nhận chính ông đã
góp phần không nhỏ vào tình trạng lãnh đạo tệ hại hiện nay tại Mã Lai.
Trong hơn 2 thập niên ngồi ghế thủ thướng, Tiến sĩ Mahathir
có công đẩy nhanh vận tốc phát triển kinh tế Mã Lai. Nhưng về mặt chính trị quốc
gia, thay vì xây dựng một nền tảng dân chủ bền vững cho các thế hệ tương lai,
ông chỉ muốn duy trì hệ thống cai trị vững chắc cho đảng của ông và cá nhân
ông. Mọi bất đồng ý kiến đều bị trừng trị không thương tiếc, dù kẻ đó là ai.
Thí dụ điển hình là khi Bộ trưởng Tài chính kiêm Phó Thủ tướng
Anwar Ibrahim bất đồng với Thủ tướng Mahathir về cách đối phó cơn khủng hoảng
tài chính 1998. Lập tức ông Ibrahim bị xem là đối thủ rồi từng bước trở thành kẻ
thù của Thủ tướng. Ông Mahathir không ngần ngại dùng cả hệ thống tòa án để buộc
cho được lên đầu ông Ibrahim tội gian dâm đồng tính với cậu tài xế riêng, một tội
rất nặng và nhục nhã tại đất nước Hồi giáo Mã Lai. Vợ ông Ibrahim là một bác sĩ
y khoa đã nhiều lần lên tiếng minh oan cho chồng và chứng minh cái oan đó bằng
sự hiện hữu của 6 đứa con của ông bà, nhưng vẫn bị xử thua kiện. Hiện nay ông
Ibrahim vẫn đang ngồi tù.
Thật ra, nếu nói một cách công bằng thì ông Mahathir không
phải là người duy nhất tại châu Á chạy theo công thức Hệ thống cai trị cậy dựa
tuyệt đối vào một "minh chúa". Theo công thức này, người đang cai trị
tin chắc mình là một minh chúa, với đầy đủ tài năng và đức độ, cũng như hết
lòng vì nước. Và ông sẽ chọn lựa một minh chúa xứng đáng kế tiếp để "truyền
ngôi". Dân chúng không có khả năng chọn lựa sáng suốt như ông. Nhân tài dù
có đi nữa mà không qua được cặp mắt lượng giá sáng suốt của ông thì cũng chưa
phải là những kẻ tài giỏi nhất.
Rất tiếc, đến nay thực tế đã cho thấy, không biết vì xui xẻo
hay vì tiềm thức của chính người chọn lựa, các vị lãnh đạo sau đều thua người
minh chúa chọn lựa mình. Tài năng, đức độ của ghế lãnh đạo cao nhất quốc gia do
đó càng lúc càng thấp xuống. Hậu quả là các thành tựu phát triển, kinh tế đã đạt
được đều bị khựng lại hay ngay cả giật lùi dần trong các đời minh chúa sau.
Ngay cả trường hợp Singapore, sau Lý Quang Diệu đến Lý Hiển
Long đã là một bước hụt hẫng lớn, chứ chưa nói gì đến tương lai. Nếu ông Lý
Quang Diệu thực sự nhìn xa và hết lòng vì đất nước, đáng lẽ ông đã phải dồn sức
xây dựng nền móng dân chủ để toàn dân có thể chọn lựa những người giỏi hơn cả
con ông ra lãnh đạo đất nước. Rõ ràng tuy có rất nhiều điểm xuất sắc, nhưng ông
Diệu vẫn còn máu phong kiến khá đậm đặc và vẫn nhìn chưa qua được mái đầu con
cái mình.
Lịch sử nhân loại cho đến ngày nay đã chứng minh tính ưu việt
của cơ chế dân chủ chọn lựa lãnh đạo; Hơn xa công thức dựa vào minh chúa, mà thực
chất chỉ là hệ phong kiến già cỗi tro bụi khoác áo tân thời.
Dân Nhật thật có phước từ khi nước Nhật không còn dựa vào
vua làm minh chúa nữa. Dân Hàn Quốc cũng gặp may kể từ khi không còn dựa vào
các minh chúa như Lý Thừa Vãn, Phác Chúng Hy nữa.
Nhìn sang thế giới Tây Phương, có những vị như George
Washington, tổng thống đầu tiên của nước Mỹ, không chỉ được dân chúng Hoa
Kỳ nhớ ơn mà còn cả thế giới kính phục. Ông có một danh hiệu khá đặc biệt là
"Người từ chối làm vua". Thật vậy, khi lãnh đạo 13 nước thuộc địa đứng
lên giành độc lập, vô số người biết ơn đã muốn tôn ông lên làm "tổng thống
trọn đời", tức một loại vua khoác áo cộng hòa để đối trọng với vua Anh.
May cho nước Mỹ, ông Washington không nhận lời. Ông nhìn rất
xa. Ông thấy được giới hạn và sự độc hại của độc tài đối với quyền tự do con
người. Ông không muốn người dân Hoa Kỳ, sau khi đổ bao xương máu giành độc lập,
lại tự hủy các quyền tự do của mình để sống làm thần dân của một vương quốc mới.
Ông đã để lại bài học lâu dài cho các thế hệ tổng thống kế tiếp bằng 2 hành động
làm ngỡ ngàng vô số người:
- Ông tự giới hạn mình vào 2 nhiệm kỳ tổng thống rồi bước xuống.
Hành động này đã trở thành truyền thống cho các tổng thống khác đến tận ngày
nay (ngoại trừ một ngoại lệ vì chiến tranh), và chỉ được luật hóa sau Thế chiến
2.
- Sau nhiệm kỳ tổng thống, ông Washington từ chối nghiêng về
phe phái nào hay ủng hộ ứng viên nào. Nói cách khác, ông từ khước chọn
"minh chúa" kế tiếp mà để việc đó cho dân. Ông chỉ cho mình vai trò
"chính khách bô lão" của quốc gia, góp ý cho bất kỳ tổng thống nào nếu
họ tìm đến ông, và hoàn toàn vì lợi ích của cả quốc gia.
Với các bài học lịch sử từ Đông sang Tây, từ xa xưa đến cận
đại, mà phần nêu trên chỉ là một vài thí dụ, rất mong các vị nguyên thủ Việt
Nam đầu tiên sau khi đất nước thoát khỏi chế độ độc tài sẽ khôn ngoan áp dụng.
Hãy đặt nhu cầu tạo nền tảng dân chủ bền vững cho các thế hệ mai sau lên trên hết,
khuyến khích đa nguyên phục vụ quốc gia, và tạo cơ chế cho người dân tuyển chọn
người tài giỏi nhất ra phục vụ đất nước, dù làm như thế có thể tạo thiệt thòi
cho cá nhân mình hay đảng phái mình trong ngắn hạn.
Xin đừng theo vết xe của chính phủ Ngô Đình Diệm, thu quá hẹp
vòng tin cậy vào phạm trù những người có quan hệ gia đình hay theo kiểu
"dưỡng phụ - dưỡng tử". Đừng theo vết xe của chính phủ Nguyễn
Văn Thiệu, đặt ưu tiên quá cao vào việc tạo ảnh hưởng cho đảng phái mình. Và nhất
là đừng theo vết xe của chính phủ Hồ Chí Minh, vừa nắm được quyền là dốc sức lo
thủ tiêu các lãnh tụ không theo cộng sản.
Quả thật, chỉ những lãnh tụ để lại nền tảng vững bền cho đất
nước hàng trăm năm sau, mới xứng đáng được nhân dân biết ơn và thế giới ngưỡng
phục hàng trăm năm sau khi họ qua đời.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét