Ka Đặng chuyển ngữ
Alexander L. Vuving, Tạp chí Diplomat
Alexander L. Vuving, Tạp chí Diplomat
1-06-2016
Một cái nhìn sâu hơn về vấn đề cơ bản chưa được thấu hiểu.
Hình bên: Tranh chấp trong vùng Biển Đông. Ảnh: The Economist
Chẳng hạn như, hãy xem xét lập
luận cho rằng Trung Quốc, không phải là kẻ gây hấn ở Biển Đông, thực
ra họ chỉ đơn thuần đáp trả các hành động khiêu khích đơn phương của những quốc
gia khác khác ví dụ như Việt Nam. Kết luận này dựa trên một số bằng chứng vẫn
còn hồ nghi, trong đó có ý
kiến cho rằng Việt Nam đã “tăng gấp đôi chủ quyền của mình” ở Biển
Đông trong vòng 20 năm qua.
Thậm chí còn có giả định rằng Việt Nam chiếm giữ 24
thực thể vào năm 1996 (thực ra dữ liệu thực tế hiển thị trên bản
đồ thường xác định là 22), ý kiến về sự gia tăng gấp đôi con số trên
là điều sai lầm. Nguồn dẫn của tuyên bố này – từ lời
công bố trước Quốc hội của một quan chức quốc phòng cấp cao của Hoa Kỳ
vào năm 2015 – cho thấy trong thực tế việc xác nhận 48 tiền đồn trên những thực
thể được Việt Nam chiếm giữ tại quần đảo Trường Sa, là hơn 48 thực thể. Việc lấy
khoảng thời gian 20 năm cũng không hoàn toàn chính xác bởi vì cách đây 21 năm
Trung Quốc đã chiếm đoạt bãi Vành Khăn.
Nhưng xét trên phạm vi rộng hơn, vấn đề nằm ở chỗ ta vẫn
chưa thực sự xác định rõ được những quốc gia nào đang chiếm giữ những gì tại quần
đảo Trường Sa. Thật không khó để tìm kiếm những bài báo – và thậm chí đôi khi
là những tư liệu, bản đồ và dữ liệu đang được xuất bản – mà nội dung chứa đựng
các thông tin không chính xác, mâu thuẫn và thỉnh thoảng không đáng tin cậy.
Bài viết này đang cố gắng giải quyết vấn đề nêu trên, bằng cách nhìn nhận ra quốc
gia nào thực sự chiếm hữu những gì trên quần đảo Trường Sa. Để xem xét những vấn
đề này, tôi đã tham khảo ý kiến từ các nguồn khác nhau, nhiều trong số đó là
căn bản, và đã được phỏng vấn một số người am hiểu về các vấn đề tương tự. Các
thông tin ghi nhận cũng đã được kiểm tra cẩn thận.
Việt Nam
Việt Nam hiện đang chiếm giữ 21 thực thể tại quần đảo Trường
Sa, với một thực thể bị đánh mất vài ngày sau cuộc đụng độ đẫm máu vào ngày 14
Tháng Ba năm 1988 với Trung Quốc tại Bãi đá Gạc Ma (Johnson South Reef). Một
danh sách đầy đủ kèm theo tên gọi và tọa độ của những thực thể này đã được công
bố trong số ra ngày 22 tháng Tư năm 1988 trên báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của
chính phủ Việt Nam [thuộc Đảng Cộng sản Việt Nam]. Đó là:
Đảo Song Tử Tây (Southwest Cay),
Đá Nam (South Reef),
Đá Núi Thị (Petley Reef),
Đảo Sơn Ca (Sand Cay),
Đảo Nam Yết (Namyit Island),
Đá Lớn (Discovery Great Reef),
Đảo Sinh Tồn (Sin Cowe Island),
Đá Cô Lin (Collins Reef),
Đá Len Đao (Lansdowne Reef),
Đảo Sinh Tồn Đông (Sin Cowe East Island),
Đá Lát (Ladd Reef),
Đảo Trường Sa/Trường Sa Lớn (Spratly Island),
Đá Tây (West Reef),
Đảo Trường Sa Đông (Central Reef),
Đá Đông (East Reef),
Đảo Phan Vinh (Pearson Reef),
Đá Tốc Tan (Allison Reef),
Đá Núi Le (Cornwallis South Reef),
Đá Tiên Nữ (Pigeon or Tennent Reef),
Đá/Bãi Thuyền Chài (Barque Canada Reef),
Đảo An Bang (Amboyna Cay).
Trong một tấm bản đồ (APMSS) đính kèm với Bản
Chiến Lược An Ninh Hàng Hải Châu Á-Thái Bình Dương năm 2015, của Bộ Quốc
Phòng Hoa Kỳ (DoD) đã xác định được 34 tiền đồn quân sự trên 21 thực thể này. Một
“tiền đồn quần sự” có thể là toàn bộ một hòn đảo hay chỉ đơn thuần là một tháp
canh. Chẳng hạn như, Bãi đá Đông, được tính ba lần vì thực thể này không lớn
như một hòn đảo nhân tạo đơn lẻ nhưng được đánh dấu tại ba địa điểm bởi bốn
căn cứ bát giác, mỗi nơi rộng khoảng vài trăm mét vuông.
Southwest Cay – Đảo Song Tử Tây. Ảnh: Getty Images
Việt Nam cũng có một hệ thống quan trắc tương tự, nhưng nó
chỉ đếm có 33 tiền đồn quân sự (phía Việt Nam gọi là điểm đóng quân hay điểm đảo).
Tại sao có sự khác biệt này? Tiền đồn quân sự DoD nê ra là một ngọn hải
đăng trên bãi đá Tiên Nữ. Việt Nam không xem nó như một tiền đồn vì
không có quân đội đóng quân tại đó – nó được điều hành bởi một công ty dân sự
thuộc Bộ Giao Tthông Vận tải. Hiện chưa rõ ngọn hải đăng này được xây dựng từ
khi nào, nhưng tất cả 33 tiền đồn khác của Việt Nam đã được thành lập trước năm
1989.
Bản đồ APMSS cũng chỉ ra rằng Việt Nam có 14 tiền đồn nữa ở
quần đảo Trường Sa. Đem bản đồ này so sánh với những gì tồn tại trên thực tế,
chúng ta có thể thấy rằng đó là 14 cơ sở canh phòng (Việt Nam gọi là nhà giàn)
đang hoạt động tại sáu bãi cạn nằm về phía Tây Nam của quần đảo Trường Sa. Việt
Nam đã bắt đầu thiết lập các cơ sở lâu dài trên Bãi Tư
Chính (Vanguard Bank), Bãi Vũng Mây (Rifleman Bank), và Bãi Phúc Tân
(Prince of Wales Bank) vào năm 1989, trên Bãi Phúc Nguyên (Prince Consort Bank)
năm 1990, và trên Bãi Quế
Đường (Grainger Bank) và Bãi Huyền Trân (Alexandra Bank) vào năm 1991.
Những cơ sở này
có diện tích từ 100 đến 250 mét vuông, và đứng trên bãi cạn với độ sâu nằm giữa
7 và 25 mét dưới mặt nước biển.
Mặc dù vậy thì các bãi cạn nằm trong quần đảo Trường Sa này
đang là một vấn đề gây tranh cãi. Bởi vì những
tấm bản đồ của Trung Quốc nhóm nhiều bãi cạn lại với nhau theo những đặc
tính chung trên quần đảo Trường Sa và xem từng nhóm này như thể đó là một cấu
trúc địa hình nổi trên mặt nước. Kết quả là, những con số mà phía Trung Quốc
đưa ra về lượng thực thể do Việt Nam chiếm giữ tại quần đảo Trường Sa là khoảng
giữa 27 và 30. Việt Nam lập luận rằng bởi vì các bãi cạn này nằm sâu dưới nước
và trong phạm vi 200 hải lý (nautical miles) tính từ đường cơ sở của Việt Nam,
chúng thuộc về thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam theo
quy định tại Điều
76 của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS). Theo UNCLOS, các
thực thể ngầm không thể bị xâm phạm bằng việc chiếm hữu hoặc điều gì khác.
Mười một trong số các thực thể mà Việt Nam nắm giữ tại quần
đảo Trường Sa có những phần đất tự nhiên nhô cao hơn 100 mét tại thời điểm thủy
triều lên cao. Những thực thể này là Đảo Song Tử Tây, Đá Nam, Đảo Sơn Ca, Đảo
Nam Yết, Đảo Sinh Tồn, Đảo Sinh Tồn Đông, Đá Len Đao, Đảo Trường Sa, Đảo Trường
Sa Đông, Đảo Phan Vinh, và Đảo An Bang. Bảy thực thể khác – Đá Núi Thị, Đá Lớn,
Đá Cô Lin, Đá Tây, Đá Đông, Đá Tiên Nữ, và Bãi Thuyền Chài – được báo cáo có những
phần tự nhiên nhô cao khỏi mặt nước khi thủy triều lên. Những thực thể này có
thể hội đủ điều kiện để được gọi là “hòn đảo” hay “bãi đá” và có từ đó có thể tạo
ra các vùng lãnh hải phù hợp với UNCLOS. Ba thực thể – Đá Lát, Đá Tốc Tan, và
Đá Núi Le – chỉ nổi lên khỏi mặt nước vào những thời điểm thủy triều hạ. Theo
ngôn ngữ của UNCLOS, chúng có thể được gọi là những thực thể “nâng lên khi thủy
triều hạ”, mà không được xem như một vùng lãnh hải, đặc quyền kinh tế, hay thềm
lục địa.
Philippines
Phương tiện truyền thông của Philippines thường báo cáo rằng
họ có chín hoặc mười thực thề do Philippines nắm giữ tại quần đảo Trường Sa. Thực
thể thứ mười là Irving Reef (Philippines gọi là Balagtas), nằm giữa bãi Loaita
và hòn đảo West York. Không tồn tại cơ sở xây dựng nào trên bãi đá ngầm này,
nhưng các nguồn tin chưa được xác minh báo cáo rằng tàu hải quân Philippines
thay phiên nhau canh phòng thực thể này. Nếu điều này là đúng, thì tình trạng của
Irving cũng tương tự như một số thực thể bỏ trống khác đang được theo dõi bởi
các tàu của Trung Quốc và Việt Nam.
Theo đó, chín thực thể do Philippines nắm giữ ở quần đảo Trường
Sa là:
Northeast Cay (Filipino: Parola),
Thitu Island (Pagasa),
Loaita Cay (Panata),
Loaita Island (Kota),
West York Island (Likas),
Flat Island (Patag),
Nanshan Island (Lawak),
Second Thomas Shoal (Ayungin),
Commodore Reef (Rizal).
Danh sách phía trên không khớp với các danh sách phổ biến
hơn về những thực thể mà Philippines chiếm giữ tại khu vực của Panata. Hầu hết
các dẫn xuất từ Philippine thông dịch tên tiếng Anh của Panata là Lankiam Cay,
một cồn cát nhỏ nằm cách 8 hải lý về phía Đông–Đông Bắc của Đảo Loaita. Hầu hết
các tài liệu quốc tế liệt kê Lankiam Cay và Đảo Loaita là hai thực thể riêng được
Philippines chiếm giữ tại Bãi Loaita. Nhưng bản đồ APMSS cho thấy không có tiền
đồn nào tại Lankiam Cay. Thay vào đó, nó chỉ ra tiền đồn thứ hai của Philippine
nằm tại Bãi Loaita ở một rạn đá ngầm chưa được xác định về phía Tây Bắc của đảo
Loaita. Một số dẫn xuất từ Trung Quốc và Việt Nam xác định thực thể do
Philippines chiếm giữ này là Loaita Nan. Tuy nhiên, hệ tọa độ thông thường gắn
với Loaita Nan (100 42.5 ‘ Bắc, 1140 19,5′ Đông) dính với rạn đá ngầm
ở rìa Tây của bãi Loaita, nơi không có cơ sở xây dựng nào được nhìn thấy từ
hình ảnh vệ tinh trong Google Maps. Đồng thời, các cơ sở nhỏ có thể được nhìn
thấy tại Loaita Cay (100 44 ‘ Bắc, 1140 21′ Đông), mà đây có thể được
coi như là một phần của Loaita Nan nhưng thực sự nó nằm về phía Đông thông qua
một kênh sâu bảy mét. Loaita Cay cách 6,5 hải lý về phía Tây Bắc của đảo
Loaita.
Pagasa Island (Thitu Island). Ảnh: AFP
Giữa năm 1970 và năm 1978, Philippine đã đến chiếm giữ bảy
thực thể trong quần đảo Trường Sa, với sự đóng quân của quân đội trên năm hòn đảo.
Hòn đảo Flat, nằm cách khoảng 6 hải lý về phía Bắc của đảo Nanshan, được cai quản
bởi một đơn vị đồn trú tại căn cứ Nanshan đến năm 2011, khi một số cơ
sở có hình dáng như vỏ ốc được xây dựng trên đảo Flat như một nhà ở hiện
hữu lâu dài hơn. Một tài liệu được công bố bởi một mạng truyền hình địa phương
trong năm 2004 báo
cáo rằng chỉ có bốn binh sĩ đang canh phòng cả hai thực thể này từ căn
cứ của họ tại Nanshan. Một cách thức tương tự có thể được áp dụng cho các thực
thể tại bãi Loaita, với đảo Loaita có chức năng làm khu vực của các đơn vị đồn
trú cho đến khi một cơ sở bổ sung khác được xây dựng trên Loaita Cay. Một số
nguồn tin cho biết Lankiam
Cay từng có một bờ biển dài hơn năm héc ta trong quá khứ, nhưng những cơn sóng
mạnh mẽ đến từ một trận bão đã quét sạch bờ cát của hòn đảo, để lại đằng sau cấu
trúc calcarenite có thể được nhìn thấy khi thủy triều hạ.
Ngày đầu tiên khi Philippines chiếm giữ bãi đá Commodore vẫn
chưa được xác định rõ. Quân đội Philippines đã đặt chân lên rạn đá ngầm này vào
tháng 8 năm 1980 và xóa bỏ sự đánh dấu của Malaysia đã được xác định ở đó một
vài tháng trước, nhưng vẫn không thể biết được liệu họ có ở lại hay rời khỏi
sau khi tới hoạt động. Một báo cáo cho rằng họ đã bỏ rơi nó từ năm 1986, nhưng
nó hiện tại đang bị chiếm giữ bởi một đội quân.
Năm 1999, Philippines chiếm giữ bãi Second Thomas bằng
cách cho tàu chở xe tăng BRP Sierra Madre đến và sử dụng nó như một căn cứ trú ẩn
cho một đơn vị đồn trú nhỏ. Đáng chú ý, Lầu Năm Góc không xem căn cứ này của Philippines
tại bãi Second Thomas như một tiền đồn, mặc dù các quan điểm trái ngược khác nổ
ra rộng rãi ở Philippines. Bãi đá này cũng chỉ là thực thể chỉ nhô cao khi thủy
triều hạ trong số các thực thể khác được chiếm giữ bởi Philippines. Tất cả tám
thực thể khác đều có thể được nhìn thấy nổi trên mặt nước khi thủy triều lên.
Đài Loan
Hòn đảo Itu Aba (tiếng Trung Quốc: 太平島) là thực thể duy nhất
mà Đài Loan chiếm giữ tại quần đảo Trường Sa. Đó cũng là thực thể có diện tích
tự nhiên lớn nhất trong quần đảo này. Đài Loan đôi khi được cho là đang nắm giữ
hai thực thể tại đây. Điều này có thể được suy ra từ các báo cáo của Đài Loan về
việc xây dựng các cơ sở (năm 1995 và 2004) và sự đặt chân chính thức của quốc
gia này (năm 2003 và năm 2012) lên bãi Ban Than. Tuy nhiên, mô tả chính xác nhất
về tình trạng hiện tại của Ban Than là “chưa được chiếm giữ”.
Ban Than có bờ biển dài hơn 100 mét, nằm cách khoảng 2,5 hải
lý từ Itu Aba và khoảng 4 hải lý từ đảo Sơn Ca do Việt Nam chiếm giữ. Lầu Năm
Góc xác định không có tiền đồn nào trên Ban Than, và không có cơ sở nào có thể
được nhìn thấy trong hình ảnh vệ tinh gần đây cũng như các hình chụp của rạn đá
ngầm này. Các nguồn tin từ địa phương nói với tôi rằng cả hai quân đội Đài Loan
và Việt Nam thỉnh thoảng đã mang vật liệu vào Ban Than và sử dụng chúng như là
mục tiêu cho các cuộc tập trận bắn đạn thật của họ.
Trung Quốc
Ở quần đảo Trường Sa, Trung Quốc đã chiếm giữ sáu thực thể từ
năm 1988 và bãi đá Vành Khăn từ năm 1995. Bảy thực thể được Trung Quốc chiếm giữ
ở quần đảo Trường Sa là:
Subi Reef (渚碧礁Zhubi Jiao),
Gaven Reef (南薰礁Nanxun Jiao),
Hughes Reef (东门礁 Dongmen Jiao),
Johnson South Reef (赤瓜礁 Chigua Jiao),
Fiery Cross Reef (永暑礁 Yongshu Jiao),
Cuarteron Reef (华阳礁 Huayang Jiao),
Mischief Reef (美济礁 Meiji Jiao).
Tháng Năm năm 2015, khi Lầu Năm Góc cho biết có tám tiền đồn
của Trung Quốc tại quần đảo Trường Sa, một số người nghĩ rằng cái thứ tám là
Bãi Eldad. Nhưng bản đồ APMSS ra đời vào ba tháng sau đó cho thấy có hai tiền đồn
tại Bãi Vành Khăn, và không có cái nào tại Bãi Eldad. Đây là một thực tế thường
bị bỏ qua.
Ngoài ra, nhiều người đã xác định nhầm một số thực thể như
các Bãi Eldad, Whitsun, Ladd, và McKennan là do Trung Quốc chiếm giữ. Ví dụ
như, hai bản đồ phổ biến ra đời vào năm 2015 của Reuters và AFP vẫn
thể hiện vài thông tin không chính xác về các Bãi Eldad và Lankiam Cay. Tình trạng
nhầm lẫn của các Bãi Eldad, Whitsun, và Ladd nguyên do là nó được suy ra từ các
báo cáo về việc Việt Nam đã chống lại sự đổ bộ của quân đội Trung Quốc lên Bãi
Eldad vào năm 1990, Đá Ba Đầu tháng 3 năm 1992 và Đá Lạc tháng Bảy năm 1992. Đá
Ba Đầu đã được gọi theo tên tiếng Việt cho Bãi Whitsun, nhưng Đá Lạc bị nhầm tưởng
là Ladd Reef (Đá Lát theo tiếng Việt), mà thực ra nó đang được Việt Nam chiếm
giữ. Trên thực tế, Đá Lạc là tên tiếng Việt cho Gaven South Reef, một thực thể
nâng lên khi thủy triều hạ nằm cách 2 hải lý từ bãi Gaven.
Một tấm ảnh do Philippines cung cấp hồi tháng Tư cho thấy
Trung Quốc đang xây cất trên các bãi đá xung quanh quần đảo tranh chấp ở Trường
Sa tại Biển Đông. Photo: Armed Forces of the Philippines/European Pressphoto
Agency
Bản đồ APMSS cho thấy không có thêm tiền đồn nào nữa của
Trung Quốc trên bất kỳ các rạn đá ngầm khác, ngoại trừ bảy tiền đồn được liệt
kê ở trên. Một số báo
cáo trích dẫn nguồn
tin tình báo của Philippine vào tháng Sáu năm 2015 đã cáo buộc rằng
Trung Quốc khai hoang đất trên Bãi Eldad. Tuy nhiên, các nguồn tin riêng biệt tại
địa phương sau đó xác nhận rằng Eldad cũng như Whitsun, McKennan, và Gaven
South vẫn chưa bị chiếm giữ.
Tuy nhiên, tình trạng chưa bị chiếm giữ của các thực thể này
là rất mong manh. Cả hai Bãi Eldad và Whitsun đều có giá trị chiến lược. Chúng
tạo thành vành đai phía Đông của hai nhóm chính trong quần đảo Trường Sa – Bãi
Tizard và Union. Chúng dần dần “trở thành” các hòn đảo. Theo chân những con
thuyền đầu tiên đi đến vào giữa những năm 1990 cho thấy rằng chúng là những thực thể chỉ nổi
lên khi thủy triều hạ. Nhưng ngày nay mỗi rạn đá ngầm này có 100 mét đụn
cát được cho là đã phát triển lên khu vực tăng thêm về chiều cao này. Một đụn
cát nhỏ hơn cũng đã xuất hiện trên Bãi McKennan, mà thường bị nhầm lẫn với Bãi
Hughes nhưng thực ra nó nằm cách 1 hải lý về phía Tây. Nhiều câu
chuyện trong các phương tiện truyền thông xã hội tại Việt Nam nói rằng
các Bãi Eldad, Whitsun, và McKennan thường là khu vực yên ắng dành cho “trò
chơi” mèo-bắt-chuột giữa Trung Quốc và Việt Nam, với thể lệ là một bên tìm cách
đặt chân lên những ‘hòn đảo mới’ này trong khi bên kia cố gắng gây khó khăn cho
những nỗ lực đó.
Một tình trạng tương tự đang xảy ra tại Bãi South Luconia
(tiếng Mã Lai gọi là Beting Patinggi Ali) nằm cách 84 hải lý ngoài khơi Sarawak
của Malaysia. Cả hai phía Trung
Quốc và Malaysia đều
xác nhận rằng các tàu thuyền của Trung Quốc đã liên tục có mặt tại đây kể từ
năm 2013. Thú vị thay, một trong những thực thể tại bãi này, Luconia Breakers
(tiếng Mã Lai gọi là Beting Hempasan Bantin), dường như đã thay đổi trạng thái
từ một vùng chìm khi thủy triều dâng trở thành một “hòn
đảo nhỏ”, nói theo cách của Thủ tướng Malaysia tại Sở Shahidan Kassim của
Thủ tướng Chính phủ. Hình ảnh từ vệ tinh và các ảnh chụp trên không cho thấy một
cồn cát dài khoảng 70 mét trên thực thể này. Chúng cũng hiển thị hình ảnh của
các tàu Cảnh sát biển Trung Quốc, với những con tàu Hải quân lớn hơn của
Malaysia, đang neo
đậu gần “hòn đảo mới” này.
Một số học giả cho
rằng Luconia Breakers đã được khai hoang thành một hòn đảo nhân tạo của
Malaysia vào thời điểm nào đó trước năm 2009. Tuy nhiên, lập luận này là vô
nghĩa. Là quốc gia ven biển có vùng đặc quyền kinh tế EEZ qua rạn đá ngầm này,
Malaysia có mong muốn mạnh mẽ trong việc giữ cho thực thể này chìm trong nước.
Một phán quyết năm 2012 của Tòa án Công lý Quốc tế nói rằng “thực thể chìm dưới
nước khi thủy triều dâng không thể nào bị chiếm đoạt”. Sau sự việc đó, Luconia
Breakers có thể được bảo vệ một cách hợp pháp khỏi tuyên bố chủ quyền của Trung
Quốc cho đến khi nó vẫn còn chìm dưới nước.
Một số người đã đặt câu hỏi rằng liệu sự nhô cao nhanh chóng
như thế có thực sự đã xảy ra một cách tự nhiên trong một khoảng thời gian ngắn
như vậy không. Nhưng điều này hầu như khó xảy ra. Sự xuất hiện của những cồn
cát nhỏ đã được biết tới trong vài thập kỷ qua ở một số rạn đá ngầm ở quần đảo
Trường Sa, với các Bãi Eldad, Whitsun, McKennan, và Ban Than là một số ví dụ nổi
bật. Với sự giúp sức của các con sóng và ngọn gió, trầm tích san hô có thể hình
thành nên các đụn cát đang phát triển hoặc bị rửa trôi – như là trường hợp của
Bãi Lankiam Cay – mà không có bất kỳ chuyển động nhô lên nào của phần đá ngầm.
Bằng chứng thủy văn do Philippines nêu ra tại Tòa án Trọng
tài Thường trực cho thấy rằng ba trong số bảy thực thể do Trung Quốc nắm giữ,
bao gồm Fiery Cross, Cuarteron và Johnson South, có một phần nhô lên khỏi mặt
nước khi thủy triều dâng cao, nhưng bốn thực thể khác, bao gồm cả Subi, Gaven,
Hughes, và Vành Khăn là những bãi chìm dưới mặt nước khi thủy triều lên cao ở
thể tự nhiên ban đầu trước khi chúng được cải tạo từ năm 2013 đã biến tất cả bảy
thực thể này thành các hòn đảo nhân tạo.
Malaysia
Giống như trường hợp của Philippines, số lượng các thực thể
do Malaysia nắm giữ tại quần đảo Trường Sa thay đổi khác nhau tùy thuộc vào
cách định nghĩa. Hầu hết đều cho rằng có khoảng năm hoặc tám thực thể. Malaysia
có quân đội đóng quân và có các cơ sở được xây
dựng trên năm thực thể sau:
Swallow Reef (tiếng Mã Lai gọi là Layang-Layang), từ năm
1983,
Kiêu Ngựa (Ubi), từ năm 1986,
Mariveles Reef (Mantanani), từ năm 1986,
Erica Reef (Siput), từ năm 1999,
Investigator Shoal (Peninjau), từ năm 1999.
Một số nguồn tin còn liệt kê thêm ba thực thể khác, bao gồm
các Bãi Dallas (Laya), Royal Charlotte (Semarang Barat Besar), và Louisa
(Semarang Barat Kecil), được chiếm giữ bởi Malaysia. Tuy nhiên, nhiều nguồn tin
hiểu biết và đáng tin cậy gần đây đến từ Malaysia, Brunei, và Hoa Kỳ đã xác nhận
rằng trên thực tế không có quân đội nào đóng quân trên ba thực thể này.
Malaysia được cho rằng đã “chiếm” Bãi Dallas giống như cách
mà Philippines đã làm với hòn đảo Flat. Quân đội gần đó tại Bãi Ardasier, cách
khoảng 3 hải lý từ Bãi Dallas, có lẽ đã xem xét và ghé thăm nơi dây một cách
thường xuyên. Mặt khác, các Bãi Royal Charlotte và Louisa hầu như khó có thể được
xem là “đã bị chiếm giữ”. Mặc dù có một ngọn hải đăng trên Royal Charlotte, các
du khách nói rằng nó đã không còn hoạt động nữa và cũng không có cơ sở nào khác
trên rạn đá ngầm này. Các du khách cũng thấy rằng Louisa cũng đang bị bỏ hoang
mà không có bất kỳ cơ sở nào khác hơn là một ngọn hải đăng có hình tiêm bi, mà
nó thì cũng không hoạt động. Trong số tám thực thể, các Bãi Swallow, Mariveles,
Erica, Royal Charlotte, và Louisa có một số phần tự nhiên nhô lên khi thủy triều
dâng cao, trong khi Ardasier, Dallas, và Investigator chỉ nhô lên khi thủy triều
hạ. Những ngọn hải tiêu trên Royal Charlotte và Louisa có thể đã được xây dựng
bởi Malaysia trong những năm 1980 như một hình thức khẳng định chủ quyền đối với
hai rạn đá ngầm này.
Brunei
Thực thể duy nhất ở quần đảo Trường Sa mà Brunei tuyên bố chủ
quyền là Louisa. Theo các báo cáo chính thức của Malaysia và Brunei, một Giao dịch
Thư tín được ký kết trong năm 2009 đã “cuối cùng đã nêu rõ sự phân định lãnh hải,
thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế” giữa hai nước. Các thỏa thuận dứt khoát
cho thấy rằng Brunei có chủ quyền trên hai
lô dầu khí mà bãi Louisa nằm trong đó.
Mặc dù Malaysia vẫn chưa chính thức bỏ tuyên bố chủ quyền của
mình đối với thực thể này, nhưng thỏa thuận kia với Brunei đã làm suy yếu đáng
kể tuyên bố đó của Malaysia. Khi cả Malaysia và Brunei đã tuyên bố chủ quyền của
họ trên Louisa trên cơ sở quyền quốc gia ven biển, và sự xác nhận lãnh hải, thềm
lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Brunei từ phía Malaysia là tương đương với
việc dâng quả bóng Louisa cho khung thành Brunei. Tuy nhiên, điều này dường như
chỉ là một sự hiểu ngầm chứ không phải là một thỏa thuận chính thức. Các trao đổi
thư tín vẫn chưa được công bố công khai, và thậm chí nếu nó sẽ được công bố
công khai, có nhiều khả năng cũng sẽ không có đề cập nào liên quan tới Louisa.
Điều này nhất định cũng giống như trường hợp với khu vực Limbang, hay các tranh
chấp lãnh thổ khác giữa Brunei và Malaysia.
Với tất cả các chú ý ập trung vào những tranh chấp trên Biển
Đông, vẫn còn quá ít sự rõ ràng về các thực tế nền tảng như quốc gia nào sở hữu
những gì. Như Bill Hayton đã minh chứng, có rất nhiều tài liệu lịch sử đã “sử dụng
các cơ sở tin cậy từ đó có thể viết nên lịch sử đáng tin”. Hy vọng rằng bài viết
này là một bước đi đúng hướng để vén tấm màn dày che giấu sự thật về những
tranh chấp này.
_______
Alexander L. Vuving là giáo sư tại Trung tâm châu Á–Thái
Bình Dương Daniel K. Inouye chuyên Nghiên cứu lĩnh vực An ninh. Quan điểm thể
hiện trong bài viết này là của cá nhân và không phản ánh quan điểm của Chính phủ
Hoa Kỳ, Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, và Trung tâm châu Á–Thái Bình Dương.
2007-2016 Bản tiếng Việt TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC – www.phiatruoc.info
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét