30-4-2015
trích từ: "Đánh Tư Sản" ở miền Nam sau 1975
Hình bên: Sài Gòn trước 1975
I. ĐÁNH TƯ SẢN
ĐÁNH TƯ SẢN cũng là một sự kiện chấn động lịch sử Việt Nam ngang hàng sự kiện THUYỀN NHÂN VIỆT NAM và chỉ xảy ra sau ngày 30 tháng Tư năm 1975.
ĐÁNH TƯ SẢN cũng là một sự kiện chấn động lịch sử Việt Nam ngang hàng sự kiện THUYỀN NHÂN VIỆT NAM và chỉ xảy ra sau ngày 30 tháng Tư năm 1975.
Sự kiện ĐÁNH TƯ SẢN do Hà Nội thực hiện đối với người
dân miền Nam Việt Nam theo Quyết Định mang số 111/CP vào ngày tháng 4 năm
1977 do Phạm Hùng ký chỉ đặc biệt nhằm vào việc tịch thu nhà cửa đất đai của
nhân dân miền Nam
Đợt X1
được bắt đầu vào sáng ngày 11 tháng Chín năm
1975 xảy ra khắp 17 tỉnh thành miền Nam và thành phố Sài Gòn. Đợt này chủ yếu
nhắm vào nhà của các cư dân thành thị, tịch thu nhà và cưỡng bức toàn bộ những
nạn nhân phải đi về vùng Kinh Tế Mới sống. Đợt X1 này tập trung vào những
người dân Việt gốc Hoa vốn đã di dân vào miền Nam Việt Nam từ cuối triều Minh,
đầu triều nhà Thanh, sanh sống thanh công tại miền Nam ngót nghét hơn 200 năm.
Đợt X2
được Hà Nội tiến hành từ tháng Ba năm 1978 và được
kéo dài cho đến sau Đổi Mới, tức là khoảng năm 1990 thì mới chấm dứt. Đợt này
chủ yếu nhắm vào tư thuơng, tiểu tư sản, các thành phần sản xuất nhỏ vốn rất đa
dạng và phồn thịnh trong nền kinh tế tự do do chính phủ Việt Nam Cộng Hòa khuyến
khích hậu thuẫn cho quốc dân từ bấy lâu.
Nền công nghiệp nhẹ, sản xuất đồ sài gia dụng trong nhà của
Việt Nam đã hoàn toàn chính thức bị phá hủy. Người dân Việt Nam sẽ không còn thấy
các sản phẩm tự hào của dân tộc như nồi nhôm hiệu Ba Cây Dừa , xà-bông (savon)
hiệu cô Ba, xe hơi hiệu La Đalat, hiệu đèn trang trí Nguyễn Văn Mạnh, …v..v….
Không những thế, các nhà máy nhỏ sản xuất nhu yếu phẩm như đường, bột giặt, giấy,
…v..v cũng bị tê liệt vì chủ nhân bị quốc hữu hóa.
Riêng tại Sài Gòn, thì báo Tuổi Trẻ đã phải thừa nhận là đã
có trên 10000 tiệm bán bị đóng chỉ qua một đêm, khiến một viên thuốc trụ sinh
cũng không có mà mua, mà dùng. Nhà sách Khai Trí lừng lẫy, biểu tượng của cả
Sài Gòn cũng bị báo đài tại Sài Gòn lúc bấy giờ rêu rao là tư bản và cần phải tịch
thu. Nhà sách Khai Trí vốn đã từ tâm giúp đỡ biết bao văn nghệ sĩ của miền Nam,
âm thầm thực hiện đường lối khai dân trí của cụ Phan Chu Trinh cho dân tộc
Riêng về chỉ thị 43 của Bộ Chính Trị vào tháng Năm năm
1978 đã quốc hữu hóa toàn bộ đất đai của nông dân miền Nam vào tay nhà nước
thông qua hình thức “Tập Đoàn Sản Xuất” dẫn đến nạn đói năm 1979 ngay liền sau
đó vì lúa gạo và các sản phẩm nông nghiệp bị sút giảm toàn diện tại miền Nam.
Tình trạng ở nông thôn miền Nam càng kinh khiếp và dữ dội
hơn ở Sài Gòn dù không ồn ào bằng.
Tổng số lúa mà nông dân miền Nam bị chở ra ngoài Bắc không
thông qua quy chế thu mua được loan truyền là khoảng 4 triệu tấn gạo vào đầu
năm 1978 trên đài phát thanh Hà Nội khi ca ngợi thành tích ĐÁNH TƯ SẢN của các
đảng bộ địa phương miền Nam. Đương nhiên, con số chính thức được các nông dân
kêu ca là lớn hơn nhiều.
Sang đến năm 1979, Võ Văn Kiệt đã phải loan báo thu mua lúa
từ nông dân với giá cao gấp cả ngàn lần giá quy định của Nhà Nước (!) để cứu
vãn tình thế bất mãn không còn dằn được nữa từ nông dân miền Nam trước những đợt
thu lúa từ năm 1977 trở đi.
Song song với chiến dịch X2 là chiến dịch X3 đặc biệt tập
trung tại Sài Gòn. Sau chiến dịch X3, hàng ngàn gia đình cán bộ miền Bắc đã vào
Sài gòn sinh sống trong những ngôi nhà bị tịch thu. Theo thừa nhận ngắn ngủi từ
báo SGGP và báo Công An khi bàn đến vấn đề trả lại nhà cho những “đối tượng” bị
đánh tư sản oan ức vào tháng 9 năm 1989, ước tính lên đến khoảng 150 ngàn người
thuộc gia đình cán bộ gốc miền Bắc vào Sài Gòn sinh sống trong những ngôi nhà bị
tịch thu.
Đỗ Mười, sau này là Tổng Bí Thư Đảng, lúc bấy giờ thay thế
ông Nguyễn Văn Linh làm trưởng ban cải tạo TW Vào ngày 16 tháng Hai năm 1976 là
người chỉ huy trực tiếp đợt thực hiện này.
Trong chiến dịch này, số lượng người Sài Gòn phải bị mất hết
tài sản và bị cưỡng bức đi KINH TẾ MỚI là khoảng SÁU TRĂM NGÀN NGƯỜI, tạo ra một
sự hoảng sợ hoang man chưa từng có trong lịch sử phát triển Sài Gòn qua các triều
đại.
Cuối đợt X3 , ghi nhận của Hà Nội là có khoảng 950 ngàn người Sài Gòn bị
cưỡng bức đi KINH TẾ MỚI, không hoàn thành chỉ tiêu đề ra là một triệu hai người!
Sức mạnh kinh tế Sài Gòn tự nhiên bị phá hoại đi đến kiết quệ
hoàn toàn sau chiến dịch X3 do Đỗ Mười trực tiếp chỉ huy. Hơn 14 NGÀN cơ sở tiểu
thủ công nghiệp tại Sài Gòn rất cần cho nền kinh tế quốc dân, với khoảng 270
ngàn nhân công hoàn toàn bị trắng tay, đóng cửa với tổng số thiệt hại tài sản
trước mắt lên đế gần chín đến hai mươi mốt tỷ Mỹ kim và tiến trình phát triển
công nghệ của đất nước trong tự cường hoàn toàn KHÔNG CÒN HY VỌNG để phục hồi.
Riêng về tổng số vàng, nữ trang tịch tư từ tư bản ở miền
Nam được các báo đài của Đảng thừa nhận lên đến 4000 lượng vàng- nhưng đây chỉ
là con số tượng trưng tính riêng ở Sài Gòn từ tháng Năm năm 1977 qua tháng Hai
năm 1978 mà thôi. Cả thảy trên dưới gần 35 ngàn lượng vàng, tính luôn cả nữ trang
và kim cương thu trong những đợt ĐÁNH TƯ SẢN ở miền Nam.
Xin được ghi chú thêm là chỉ nội vụ Hà Nội tiến hành cho
phép người Việt gốc Hoa ra đi bán chính thức nếu đóng khoảng 120 lượng vàng đã
góp vào gần 10 ngàn lượng vàng tổng cộng.
Trung bình , mỗi người dân miền Nam nằm trong đối tượng bị
ĐÁNH TƯ SẢN mất trắng khoảng 9 lượng vàng không tính đất đai, nhà cửa, phụ tùng
thiết bị , đồ cổ, và các tài sản khác. Trữ lượng vàng của toàn bộ người dân miền
Nam có thể lên đến 250 ngàn lượng vàng tính đến năm 1975 nhưng đồng bào khôn
khéo giấu đi và phản kháng cũng như đem theo khi di tản.
Tham khảo : Bên
Thắng Cuộc: PHẦN I : MIỀN NAM / CHƯƠNG III : ĐÁNH TƯ SẢN (Huy Đức)
II. KINH TẾ MỚI:
Tất cả những ai tại Sài Gòn bị Sản Hà Nội tịch thu nhà , tài
sản điều phải đi về vùng KINH TẾ MỚI, là những nơi mà cơ sở hạ tầng cho sinh hoạt
chưa được xây dựng, trong đó có cả điện nước, trường học và bệnh xá. HƠN SÁU
TRĂM NGÀN nạn nhân bị cưỡng bức qua đêm phải rời Sài Gòn để về những vùng KINH
TẾ MỚI và bỏ lại hết toàn bộ tài sản của mình từ nhà ở, của cải, đồ đạc cho Đảng
quản lý.
Những người bị tịch thu nhà và sau đó dồn lên vùng kinh tế mới
Chỉ tiêu đề ra là phải đưa cưỡng bức khoảng gần một triệu
người Sài Gòn ra các Vùng KINH TẾ MỚI và buộc họ phải bỏ hết tài sản nhà cửa lại
cho Hà Nội quản lý. Tổng kết từ các báo cáo thành tích cải tạo XHCN của Đảng, số
người bị cưỡng bức đi Kinh Tế Mới từ Sài Gòn qua mười năm Quá Độ- ĐÁNH TƯ SẢN
như sau:
THỜI KỲ
|
CHỈ TIÊU
|
KẾT QUẢ THỰC HIỆN
|
GHI CHÚ
|
1976- 1979
|
4 triệu người
|
1,5 triệu người
|
95% là từ Sài Gòn
|
1979-1984
|
1 triệu người
|
1,3 triệu người
|
50% là từ Sài Gòn
|
Khi đến vùng KINH TẾ MỚI để sống tham gia các tập đoàn sản
xuất hay còn gọi tắt là Hợp Tác Xã, “thành quả lao động” của các nạn nhân này
được phân phối chia ra như sau:
– 30% trả thuế
– 25% góp cho chính phủ theo giá thu mua của nhà nước;
– 15% trả lương cho cán bộ quản lý ;
– 30% còn lại chia cho các thành viên tính theo số điểm thuế
lao động
Như vậy là sản phẩm nông nghiệp từ các nông trường vùng Kinh
tế Mới đã bị Đảng tịch thu hết 70 % và chỉ còn 30% là chia lại cho các thành
viên, vốn là các nạn nhân bị tịch thu nhà cửa sống trong vùng Kinh Tế Mới.
Thế là cả triệu người dân Sài Gòn đột nhiên lâm vào cảnh đói
kém trầm trọng như là đòn trả thù hữu hiệu của chế độ Hà Nội đối với những bị
liệt vào thành phần không phải “Cách Mạng”, ngụy quân ngụy quyền và tiểu tư sản.
Ước tính có khoảng 300 ngàn trẻ em bị thất học vì sống ở các
vùng Kinh Tế Mới này. Nhân dân miền Nam- cả triệu người đang sống sung túc bổng
lao vào chịu đói kém khổ sở chưa từng có. Nạn đói kém lan tràn khắp mọi nơi, mọi
nhà trước thảm cảnh.
Hàng vạn người dân Sài Gòn đã phải bỏ trốn khỏi các vùng
Kinh Tế Mới, đi ăn xin trên đường Về Sài Gòn, đói rách khổ sở. Đây là thời kỳ
khốn khổ bi đát nhất trong lịch sử phát triển Sài Gòn.
III. Quyết Định 111/CP của Hà Nội về việc “Đánh tư sản
” ở miền Nam Việt Nam
Quyết định 111/CP của Hà Nội là một tài liệu chứng quan trọng. Quyết
định này là nguồn gốc của mọi khổ đau, nghèo khó của người dân miền Nam Việt
Nam sau ngày 30 tháng Tư năm 1975 và là lý do Việt Nam bị tụt hậu về mọi mặt, đứng
hàng thứ ba nghèo nhất thế giới theo tuyên bố của Liên Hiệp Quốc vào năm 1985.
Trích :
IV. ĐỐI VỚI NHÀ, ĐẤT CỦA CÁC TỔ CHỨC VÀ CÁ NHÂN THUỘC BỘ MÁY
CAI TRỊ CỦA NGUỴ QUÂN NGUỴ QUYỀN VÀ ĐẢNG PHÁI PHẢN ĐỘNG
1. Mọi loại nhà cửa, đất đai trước ngày Giải phóng do chính
quyền Mỹ nguỵ quản lý hoặc dành cho những tổ chức hay cá nhân, thuộc nguỵ quân
nguỵ quyền và các tổ chức đảng phái phản động sử dụng, nay đều là tài sản công
cộng, do Nhà nước trực tiếp quản lý.
2. Nhà cửa, đất đai của những người sau đây đều do Nhà nước
trực tiếp quản lý:
– Sĩ quan nguỵ quân cấp từ thiếu tá trở lên.
– Sĩ quan cảnh sát từ cấp trung uý trở lên.
– Cán bộ thuộc bộ máy cai trị của nguỵ quyền đã giữ chức vụ, từ Chủ sự phòng cơ quan Trung ương, Ty phó, Quận phó trở lên.
– Các phần tử ác ôn, mật vụ, tình báo, chiêu hồi cố tình phản cách mạng.
– Sĩ quan cảnh sát từ cấp trung uý trở lên.
– Cán bộ thuộc bộ máy cai trị của nguỵ quyền đã giữ chức vụ, từ Chủ sự phòng cơ quan Trung ương, Ty phó, Quận phó trở lên.
– Các phần tử ác ôn, mật vụ, tình báo, chiêu hồi cố tình phản cách mạng.
Điều IV của QĐ 111/CP đã cho thấy rõ gia đình thân nhân của quân
lực Việt Nam Cộng Hòa phải chịu mất nhà mất cửa rất thê thảm. Mọi quy chụp là
phản động hay Ngụy quyền thì coi như là bị tịch thu nhà cửa.
Dòng chữ cuối cùng của khoản 2 điều IV của QĐ 111/CP có ghi
rõ là nhà cửa đất đai của các thành phần sau đây bị tịch thu: “Các phần tử ác
ôn, mật vụ, tình báo, chiêu hồi cố tình phản cách mạng.” Bởi không có định
nghĩa rõ ràng thế nào là thành phần ác ôn nên các viên chức cán bộ Cộng Sản tha
hồ kết tội thuờng dân vô tôi vạ là thành phần ác ôn của “Ngụy quyền” để tư lợi
cướp bóc nhà cửa cho riêng mình, không cần tòa án nào xét xử cả. Ai ai cũng có
thể là điệp viên CIA, hay là có lý lịch ba đời liên quan đến Ngụy quân, và điều
có tư tưởng phản động và cần phải tịch thu nhà cửa dựa trên điều khoản này của
Q Đ 111/CP.
Không khí hoảng sợ , đau thuơng oán hận lan tràn khắp cả miền
Nam.
IV. Hậu quả ĐÁNH TƯ SẢN của Hà Nội:
Theo các chuyên gia của Liên Hiệp Quốc về kinh tế, Việt Nam
tụt hậu hơn 50 năm về kinh tế vì các chính sách đánh tư sản này của Cộng Sản Hà
Nội lên đầu người dân miền Nam. Việt Nam là quốc gia nghèo đứng hàng thứ ba
trên thế giới vào năm 1985.
Cho đến giờ phút này, người dân Việt Nam vẫn chưa thực sự có
quyền TƯ HỮU mà chỉ có quyền SỬ DỤNG, nghĩa là thảm họa bị ĐÁNH TƯ SẢN trong
quá khứ vẫn treo lơ lửng trên đầu người dân Việt Nam bất cứ lúc nào cũng có thể
xảy ra chiếu theo luật pháp hiện hành của Hà Nội.
Kinh tế của Việt Nam mãi đến năm 1997 mới thực sự khắc phục
được một phần hâu quả của 10 năm Quá Độ, ĐÁNH TƯ SẢN do Hà Nội tiến hành từ năm
1976 đến năm 1987.
Từ năm 1987 đến năm 1997, Hoa Kỳ đã nhắm mắt làm ngơ cho những
người Việt di tản hay Vượt Biên định cư tại Mỹ gởi tiền hàng ồ ạt về cứu đói
thân nhân mình và vực dậy sự sinh động về kinh tế vốn có ngày nào của miền
Nam. Tổng số ngoại tệ gởi về lên đến 8 đến 15 tỷ Mỹ kim mỗi năm trong suốt 10
năm đó.
Sang đến năm 1989, báo SGGP từ Sài Gòn chịu 90 % ngân sách của
cả nước và bắt đầu tiến hành trả lại nhà cho một số nạn nhân bao năm trời khổ ải,
cũng như bắt đầu bàn tới vấn đề cho phép các sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa
được bán nhà vốn hầu hết đã bị tịch thu nếu ra đi theo chương trình HO-Special
Release Reeducation Center Detainee Resettlement Program (Chương trình tái định
cư phóng thích đặc biệt tù nhân trung tâm cải tạo)
Chỉ số nghèo đói của Việt Nam đứng hàng thứ ba trên thế giới
và chỉ mới có những tiến bộ cải thiện khi World Bank và USAID tăng tốc trợ
giúp.
Mọi tài liệu, hình ảnh ca ngợi ĐÁNH TƯ SẢN từ các báo chí
đài phát thanh của Đảng cũng bị dẹp dần đi.
Hà Nội tới ngày nay vẫn chưa chính thức xin lỗi hai mươi mốt
triệu người dân miền Nam về hành động này.
@Nghiên Cứu Lịch Sử
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét