Cho dù Duyên Anh có thế nào đi nữa, thì ông cũng là một người
cầm bút, không có lấy một tấc sắc trong tay để tự vệ. Nhân danh bất cứ một điều
gì để tấn công và hạ thủ một người như thế rõ ràng là một tội ác.
Là một trong những nhà văn nổi tiếng của miền Nam trước năm 1975, Duyên Anh được
biết đến như một con người nhiều tài, lắm tật, miệng làm hại thân!
Tôi quen biết
Duyên Anh từ lâu, từ dạo tôi vẫn thường hay chầu rìa những canh xì phé nảy lửa
của những "hão thủ" lừng lẫy trong làng báo Sài Gòn trước 1975 với một
vài doanh nhân, chính khách. Thuở đó, thân phận và túi tiền của tôi không đủ
"tư cách" ngồi cùng chiếu với các đàn anh. Vào sòng xì phé là có thể
biết ngay tính cách của từng người. Duyên Anh thích "tháu cáy" và
khích tướng đối thủ, nhưng lại rất cay cú khi bị người khách "tháu
cáy". Thế nhưng sau 1975, tôi mới thật sự thân thiết với Duyên Anh. Ông từng
coi tôi như một người bạn vai em ruột rà. Điều này đã được ông viết trong hồi
ký.
Năm 1954, Duyên Anh di cư vào Nam. Để kiếm sống, ông đã làm
mọi công việc của một thanh niên hè phố, chẳng có nghề ngỗng nào nhất định. Khi
thì theo một nhóm sơn đông mãi võ, khi tháp tùng đoàn cải lương lưu diễn đây,
mai đó. Lại có lúc quảng cáo cho gánh xiếc rong, rồi giữ xe đạp hội chợ… Sang
trọng nhất là làm gia sư, dạy kèm cho trẻ con và dạy đàn ghita, sáo trúc cho những
người theo học vỡ lòng nghệ thuật.
Duyên Anh làm thơ rất sớm, đến những năm cuối của thập niên
50, ông bắt đầu viết văn xuôi. Viết để thỏa mãn giấc mơ cầm bút, chẳng đăng đâu
cả. Mãi đến năm 1960, ông được nhà văn Trúc Sĩ dẫn tới diện kiến nhà văn Nguyễn
Mạnh Côn, lúc đó đang làm chủ bút tờ Chỉ Đạo. Bài thơ "Bà mẹ Tây
Ninh" - sáng tác đầu tiên của ông được đăng trên tờ báo này. Một
tháng sau, thêm truyện ngắn "Hoa Thiên Lý", rồi "Con sáo của em
tôi" tiếp tục có mặt trên tờ Chỉ Đạo, với lời giới thiệu bốc tới mây xanh
của Nguyễn Mạnh Côn. Ngay lập tức, ông được người đọc đón nhận nồng nhiệt. Mỗi
truyện được trả nhuận bút 5.000 đồng, thời đó mua được hơn một cây vàng. Nguyễn
Mạnh Côn tỏ ra rất ưu ái, tận tình nâng đỡ Duyên Anh để sáng tác của ông thường
xuyên xuất hiện trên văn đàn. Và đây cũng là đầu mối oan nghiệt cho cả hai sau
này.
Đến năm 1961, khi ông Nguyễn Mạnh Côn rời tạp chí Chỉ Đạo
thì Duyên Anh đã thành danh. Ông bắt đầu tung hoành làng báo Sài Gòn với nhiều
bút danh khác nhau: Thương Sinh, Mõ Báo, Thập Nguyên, Vạn Tóc Mai, Nã Cẩu, Lệnh
Hồ Xung, Độc Ngữ …bằng một giọng văn châm chọc, hết sức cay độc. Thời đó, có
hai nhà văn làm báo mà người ta sợ nhất, đó là Chu Tử với bút hiệu Kha Trấn Ác,
trong mục Ao Thả Vịt và Duyên Anh. Nạn nhân của Duyên Anh không phải chỉ toàn
là người xấu, mà nhiều khi chỉ là một ai đó bị ông ghét, cũng bị ông lôi lên mặt
báo, "đánh" không thương tiếc! Sự kiêu căng, miệng lưỡi cay độc của
ông đã gây dị ứng cho không ít người. Một nhân vật lãnh đạo chóp bu của Việt
Nam Cộng hòa, khi lưu vong ở Mỹ đã bắn tiếng với ông Tô Văn Lai của chương
trình Thúy Nga Paris rằng: "Bảo thằng Duyên Anh câm mồm nó lại".
Duyên Anh được xem như tay tổ trong loại sách "xúi con
nít đập lộn", với những cuốn tiểu thuyết viết về giới du đãng rất ăn khách
như "Điệu ru nước mắt", "Sa mạc tuổi trẻ", "Vết thù
trên lưng ngựa hoang". Tác phẩm của ông từng ngợi ca tay anh chị Trần Đại
(Đại ca Thay) như một kẻ giang hồ mã thượng. Trong một bài phỏng vấn, tuần báo
Đời hỏi ông: Tại sao trong thời buổi nhiễu nhương lại tôn vinh một tay du đãng,
sống ngoài vòng pháp luật lên tận mây xanh? Duyên Anh trả lời: "Chính vì
thời buổi nhiễu nhương, không có thần tượng cho tuổi trẻ, nên phải đi tìm cho họ
một mẫu thần tượng. Xem ra, Trần Đại là xứng đáng hơn cả".
Duyên Anh là người thẳng thắn, yêu, ghét rạch ròi. Đã quý mến
ai rồi thì ông sống trọn tình, trọn nghĩa với người đó.
Năm 1978, Duyên Anh gặp lại Nguyễn Mạnh Côn trong trại cải tạo.
Nhà văn Nguyễn Mạnh Côn có thâm niên hơn 40 năm là đệ tử của ả phù dung nên sức
khỏe rất yếu. Biến chứng tâm, sinh lý của một con người có quá trình "phi
yến thu lâm" (đọc trại cho… sang chữ "phiện, thú lắm") quá
dài nên khi bị bắt buộc phải cai, cơ thể ông bị hành hạ liên tục. Do đó, sinh
hoạt của ông rất bê bối, khiến đa số trại viên khác, dù có thông cảm đến mấy
cũng không muốn gần gũi, chia sẻ, trong đó có Duyên Anh. Người khác chẳng sao,
nhưng với Duyên Anh, Nguyễn Mạnh Côn cho rằng đó là bội bạc. Nhiều lần ông Côn
nói với mọi người: "Không có tôi thì đã không có Duyên Anh! Tôi mà không
biên tập nát ra thì truyện của nó ai mà thèm đọc". Và Duyên Anh đã phản ứng
theo đúng tính cách kiêu ngạo của ông: "Không có "Côn Hít" thì
Duyên Anh vẫn là Duyên Anh. Ông Côn giỏi sao không biến một thằng cha căng chú
kiết nào đó thành một văn tài mà phải đợi đến Duyên Anh?" Từ đó, cả hai
nhìn nhau tuy bằng mặt, mà không bằng lòng. Cũng chỉ có thế, ngoài ra Duyên Anh
không có bất kỳ hành vi, thủ đoạn nào ác ý với Nguyễn Mạnh Côn, như lời đồn đại
đầy ác ý của những kẻ thù ghét Duyên Anh sau này. Nhiều người biết rất rõ chuyện
này, hiện vẫn còn sống…
Năm 1981, Duyên Anh được trở về với gia đình khi vợ và các
con đã định cư tại nước ngoài. Năm 1983, ông vượt biên sang Malaysia, rồi sinh
sống tại Pháp, tiếp tục viết. Cùng phận lưu vong nhưng ông không tiếc lời thóa
mạ những đảng phái, phe nhóm chính trị lưu manh đang hoạt động tại hải ngoại.
Duyên Anh gọi bọn họ là những kẻ giả hình, những tay lừa bịp, mộng du, chiến đấu
trong chiêm bao. Ông cũng lên án đám lãnh đạo, chính khách, tướng tá của Việt
Nam Cộng hòa toàn là một lũ vô tài, bất tướng, giàu của cải nhờ bóc lột, nhưng
quá nghèo nàn liêm sỉ và nhân cách.
Duyên Anh đã gục ngã ở một nơi được ca tụng như là thiên đường
của thế giới tự do. Cũng tại nơi đó, nhà báo Đạm Phong, nhà văn Hoài Điệp Tử…
đã bị sát hại một cách tàn nhẫn; cựu sinh viên Đoàn Văn Toại (nhạc gia của ca
sĩ Trần Thu Hà) đã bị bắn trọng thương bởi những đồng hương quá khích do bất đồng
chính kiến.
Năm 1988, Duyên Anh sang thăm Hoa Kỳ. Xui cho Duyên Anh, ngày
30/4/1988, ông cùng một người bạn - họa sĩ Trần Đình Thục đi trên đường Bolsa,
đúng vào lúc mặt trận bịp bợm Hoàng Cơ Minh đang biểu dương lực lượng, với mấy
chục người loe hoe… Trước đó, Duyên Anh đã từng không tiếc lời chỉ trích mặt trận
bịp này trên báo Ngày nay bằng những lời lẽ nặng nề. Ông còn viết cả một cuốn
tiểu thuyết mang tựa đề "Tuổi bướm sầu" để vạch trần bộ mặt đểu cáng
của những tên chóp bu và những hành động bỉ ổi của mặt trận này.
Nhận ra Duyên
Anh, một gã thanh niên có thân hình vạm vỡ cầm một cục đá từ trong đám đông
xông ra. Duyên Anh bị đánh tới tấp vào đầu, gục xuống trên vũng máu. Sau ca cấp
cứu, ông được đưa về Pháp sống đời phế nhân, cánh tay phải và nửa thân hình gần
như liệt hẳn. Điều đáng nói, hầu như tất cả các phương tiện truyền thông của
người Việt ở hải ngoại, không nơi nào dám lên tiếng bênh vực Duyên Anh, hoặc
lên án hành động mang nặng tính khủng bố của những kẻ chủ mưu. Người ta chỉ thấy
một vài tờ báo Việt ngữ loan tin một cách hả hê bên cạnh tấm hình Duyên Anh nằm
bất tỉnh, đầu vẹo sang một bên, giây nhợ chằng chịt từ đầu xuống cổ!
Dư luận trong cộng đồng người Việt hải ngoại rộ lên nghi vấn
chính mặt trận Hoàng Cơ Minh là thủ phạm. Chúng đã cho tay chân sát hại Duyên
Anh để trả thù chứ không chỉ là một trận đòn dằn mặt. Một nguồn dư luận khác,
cũng không kém phần sôi nổi, và cũng được nhiều người tin, dù rất mơ hồ, không
cơ sở: Duyên Anh bị những người yêu mến Nguyễn Mạnh Côn hành hung để phục hận
cho những ngày hai người sống chung trong trại cải tạo. Trong giới văn nghệ
sĩ của Sài Gòn trước đây đang sống ở hải ngoại cũng có người vì hiềm khích cá
nhân với Duyên Anh mà công khai lên tiếng công kích ông một cách mạnh mẽ. Điển
hình là trường hợp Tạ Tỵ.
Trước 1975, Duyên Anh và Tạ Tỵ đã như sừng với đuôi. Sau giải
phóng, NXB Công an nhân dân có phát hành cuốn sách "Những tên biệt kích cầm
bút", trong đó có điểm tên nhiều văn nghệ sĩ sừng sỏ của Sài Gòn. Tuyệt
nhiên không thấy có tên Tạ Tỵ. Nhưng theo Duyên Anh, khi sang Mỹ, đi đâu ông Tạ
Tỵ cũng tự nhận mình có tên trong số "những tên biệt kích" đó. Duyên
Anh giễu cợt Tạ Tỵ "nhận xằng, khôi hài". Lửa đổ thêm dầu,
Duyên Anh càng trở thành cái gai trong mắt ông Tạ Tỵ.
Nhưng cho dù Duyên Anh có thế nào đi nữa, thì ông cũng là một
người cầm bút, không có lấy một tấc sắc trong tay để tự vệ. Nhân danh bất cứ một
điều gì để tấn công và hạ thủ một người như thế rõ ràng là một tội ác. Duyên
Anh kéo dài cuộc sống tàn phế tại Pháp, cho đến ngày 6/2/1997 thì qua đời vì bệnh
xơ gan.
Tác giả bài viết này còn nợ Duyên Anh một món nợ tinh thần.
Trong một lần đau ốm, ngỡ mình sắp chết, Duyên Anh đã nhờ tôi học thuộc lòng một
bài thơ của ông với lời căn dặn một ngày nào đó, gặp được vợ con của ông thì đọc
cho họ nghe. Ông đọc cho tôi, Đằng Giao và Dương Đức Dũng cùng nghe, bắt học
thuộc lòng và sau đó xé mất. Đó là bài thơ có tựa đề là "Đảng tử sám hối".
Trong bài có những câu tự vấn lương tâm và thói kiêu ngạo một thời: "Ta dại
khờ múa hát giữa ngàn hoa/ Ca bóng tối cứ ngỡ là ánh sáng/ Ta ru hồn ta tháng
ngày bịnh hoạn/ Với kiêu sa dị hợm chút tài hèn/ Hỡi cánh diều căng gió vút bay
lên/ Ngạo nghễ lắm mà quên dây sắp đứt/ Mũi tên oan phóng đi không thương tiếc/
Lưỡi gươm đau chém nát đóa môi cười/ Anh nhìn anh xưa thế đó em ơi/ Những đổ vỡ
của một thời lang bạt…"
.
Tôi tin là Duyên Anh thật sự sám hối. Hy vọng ở bất cứ nơi
nào trên thế giới này chị Phương (vợ của Duyên Anh) và các cháu cũng như những
ai một thời là bằng hữu của ông, hoặc từng thù ghét ông sẽ đọc được những câu
thơ này bằng tấm lòng độ lượng đối với một người đã không còn trên cõi đời này.
@Blog Văn Chương +
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét