Kris Hartley, Diplomat
Trần Văn Minh dịch
04-10-2015
Trần Văn Minh dịch
04-10-2015
Hình bên: Trường ĐH Kinh tế – ĐHQG. Nguồn: Shutterstock.com
Hơn hai thập niên sau cuộc di cư của “thuyền nhân” Việt Nam đạt
mức cao nhất, một cuộc di cư mới lại đang diễn ra. Ngày càng có nhiều sinh viên
Việt Nam ở độ tuổi đại học đang tìm kiếm bằng cấp ở nước ngoài.
Theo Trung tâm Nghiên cứu Pew, số lượng sinh viên Việt Nam
du học tại Hoa Kỳ tăng gấp 7 lần từ năm 2000 đến năm 2014 (từ 2.266 đến
16.579). Thăm dò này cho thấy rằng, hơn một phần ba số sinh viên Việt Nam ở Mỹ
học về kinh doanh. Đây có phải là một bằng chứng về khả năng tệ hại của Việt
Nam trong việc giáo dục những nhà lãnh đạo công nghiệp cho thế hệ kế tiếp?
Trong một bài báo gần đây, một cựu bộ trưởng giáo dục Việt Nam than phiền về hệ
thống giáo dục của đất nước, đã nói rằng “Giáo dục đại học thật là tệ hại. Sách
giáo khoa đầy dẫy lý thuyết tẻ nhạt, không cần thiết”. Trong cùng bài báo, một
nữ công chức Việt Nam và là mẹ của sinh viên du học mô tả hệ thống “toàn là thúc
ép và dối trá”. Than phiền về việc học vẹt và bóp nghẹt sáng tạo vẫn thường xuyên
xảy ra.
Ngoài những yếu tố lực đẩy này, những yếu tố lực kéo cũng đang
khuyến khích luồng di cư của dân tị nạn giáo dục. Một số nước tích cực khuyến dụ
sinh viên nước ngoài để tăng doanh thu học phí. Ví dụ, vào năm 2014, chính phủ
Canada thông báo ý định tăng gấp đôi số lượng ghi danh học của sinh viên nước
ngoài lên khoảng nửa triệu vào năm 2022; Việt Nam được xác định là một “thị trường
ưu tiên”, cùng với Trung Quốc, Brazil và Ấn Độ. Trong một bài báo tháng 9 trên
nhật báo CBC, một nhân viên tại một trường đại học ở Ottawa (không thuộc hàng
50 trường đứng đầu của Canada) đã mô tả việc tuyển dụng sinh viên nước ngoài là
sự cạnh tranh rất “khốc liệt”,” dấu hiệu cho thấy nhu cầu vẫn còn nhiều, ngay cả
đối với các học viện kém nổi tiếng.
Các đại học Việt Nam cũng không rút lui trong lặng lẽ. Đầu tư
vào cơ sở và tuyển dụng đội ngũ giảng viên quốc tế là xu hướng phổ biến trong cạnh
tranh. Một cuộc chạy đua xây dựng cơ sở đại học gần đây đã khiến các trường đại
học Mỹ nhảy vào cuộc đua xây dựng ký túc xá, sân chơi thể thao, và trung tâm giải
trí cho sinh viên. Nhiều phân khoa đại học hiện nay giống như các câu lạc bộ xa
hoa của giới trưởng giả, thậm chí được lọt vào các loại xếp hạng mới [thay vì xếp
hạng theo học vấn, có loại xếp hạng theo mức tân kỳ của cơ sở học viện]. Không
chịu thua kém, Đại học FTP [đại học tư đầu tiên ở Việt Nam] ở thành phố Hồ Chí
Minh vừa công bố kế hoạch cho một khuôn viên trường “xanh”, mà kiến trúc hùng vĩ
của nó mang lại hình ảnh của các trường đại học giàu có nhất thế giới.
Giáo dục là vấn đề cần phải đề cập khi thảo luận về tăng trưởng
kinh tế. Không một quốc gia nào muốn bị rơi vào một cuộc chiến tranh chi phí
lao động rẻ, bởi vì cuộc rượt đuổi ở dưới thấp sẽ tạo ra một vị thế cạnh tranh
không bền vững. Do đó năng suất cao thông qua việc phát triển kỹ năng là một
chiến lược thông thường. Tuy nhiên, sản xuất [các mặt hàng] giá trị gia tăng
cao có thể phải linh động như [các mặt hàng] giá trị gia tăng thấp, và người ta
có thể sẽ phải chứng kiến sự cạnh tranh về đầu tư toàn cầu khi nhu cầu tìm kiếm
giáo dục lan rộng. Trong nền kinh tế như Việt Nam, sản xuất công nghiệp – bất kể
mức giá trị của nó – vẫn còn bị lệ thuộc trực tiếp hoặc gián tiếp vào các doanh
nghiệp nước ngoài. Ngay cả việc tiến lên mức thang giá trị gia tăng cũng không
thay đổi thực tế rằng, nhiều việc làm trong ngành công nghiệp, bao gồm cả việc ở
cấp kỹ sư, được trường đại học đào tạo, được các nhà đầu tư – chủ sở hữu nước
ngoài mướn, chỉ vì lợi thế chi phí lao động rẻ. Làm thế nào một quốc gia có thể
thoát ra khỏi chu kỳ giá trị gia tăng này để nhảy vọt được?
Loại sản xuất kỹ năng cao cuối cùng vẫn là công việc “dây
chuyền”; chúng không phải quản trị mà cũng không phải sở hữu. Mô hình tăng trưởng
kinh tế chuyển biến sẽ không xảy ra cho đến khi các phương tiện sản xuất thuộc
sở hữu và quản lý của nhiều doanh nghiệp quốc nội hơn nước ngoài. Điều này không
có nghĩa là các công ty nước ngoài không có phận sự tại Việt Nam. Tuy nhiên, sự
gia tăng số lượng và sự cạnh tranh của các doanh nghiệp quốc nội sẽ giúp luân
chuyển lợi nhuận và vốn tốt hơn vào kinh tế Việt Nam; đất nước có thể thoát ra
khỏi sự phụ thuộc vào việc thuê mướn bên ngoài và hướng tới tự túc. Quan điểm này
không cổ súy chủ nghĩa biệt lập và cũng không bảo hộ mậu dịch. Doanh nghiệp quốc
nội mạnh hơn có thể và nên khai thác các thị trường quốc tế và đầu tư ra nước
ngoài. Hủy bỏ các hạn chế thương mại và trợ cấp công nghiệp cũng sẽ giữ áp lực
cạnh tranh lên các công ty để họ tiếp tục cải tiến. Cuối cùng, xây dựng năng lực
cho các doanh nghiệp quốc nội phải là một nỗ lực từ dưới lên, với sự hỗ trợ của
những chính sách giáo dục có chất lượng và thiên về phát triển công cộng.
Câu hỏi đặt ra là, làm thế nào giáo dục có thể góp phần để đạt
tới mục tiêu này. Sinh viên Việt Nam phải có đầu óc kinh doanh, và hệ thống đại
học của đất nước nên chuẩn bị đầy đủ cho họ. Sự gia tăng gần đây của các chương
trình học về kinh doanh – nhiều chương trình trong các học viện tư nhân – dường
như không thể làm chậm luồng di cư của người “tỵ nạn giáo dục”. Trong một bài báo
năm 2013, một cựu hiệu trưởng đại học RMIT – Việt Nam, tỏ ra ngạc nhiên về số lượng
sinh viên tốt nghiệp của RMIT ra mở cơ sở kinh doanh riêng. Có lẽ kiểu giáo dục
Tây Phương (trong hoặc ngoài Việt Nam) thu hút những người đã có khuynh hướng
kinh doanh, nhưng các kỹ năng thu thập được ở các trường đại học nước ngoài cũng
có thể định hình chiến lược nghề nghiệp và triết lý kinh doanh của sinh viên
theo hướng mới.
Việt Nam đã đạt được tiến bộ kinh tế đáng kể từ cuộc Đổi Mới
năm 1986. Tăng trưởng sẽ không thể thực hiện được nếu không có sự khéo léo và
tham vọng của người dân Việt Nam. Thật vậy, Việt Nam gần đây đã tiến lên 19 bậc
(tới thứ 54) trong bảng xếp hạng toàn cầu về sáng tạo của Tổ chức Tài sản Trí
tuệ Thế giới. Hơn nữa, hệ thống trường trung học của nước này gần đây đã tạo sự
chú ý do đứng thứ 12 về toán và khoa học trong các bài kiểm tra PISA quốc tế.
Tuy nhiên, một phần đáng lo ngại về tiềm năng sáng tạo to lớn và trẻ trung của
Việt Nam tiếp tục bị thua sút phương Tây.
Việt Nam phải làm việc tích cực để thúc đẩy hình ảnh hệ thống
giáo dục đại học của mình, không chỉ trong bảng xếp hạng toàn cầu mà còn trong
số các công dân của mình. Để cạnh tranh thành công về tài năng, các trường đại
học trong nước phải tiếp tục chỉnh đốn chương trình và phong cách giảng dạy
mang hình ảnh tự do hơn của các trường đại học phương Tây. Đây là những gì thị
trường hiện nay đòi hỏi, và sẽ là một bước quan trọng hướng tới sự tăng trưởng
kinh tế có năng lực chuyển biến.
Kris Hartley là giảng viên thỉnh giảng về Kinh tế tại Đại học
Quốc gia Việt Nam – Thành phố Hồ Chí Minh, và là một ứng viên tiến sĩ tại Trường
Chính sách Công Lý Quang Diệu, Đại học Quốc gia Singapore
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét