15-7-2015
Hình bên: Lính hải quân Trung Quốc đứng gác trên boong tàu Liêu Ninh, tàu sân bay đầu tiên của Trung Quốc, trên hành trình tới một căn cứ quân sự ở Tam Á, tỉnh Hải Nam, tháng 11 năm 2013.
Khái niệm này tập trung chủ yếu vào thực hiện tấn công phủ đầu
áp đảo trong giai đoạn đầu của một cuộc xung đột với nhiều khả năng leo
thang. Có lẽ vì thấy được cách tiếp cận trên đòi hỏi chi phí tốn kém
và mức rủi ro đến dường nào, Krepinevich hiện giờ cung cấp một thuật
ngữ thay thế gọi là “Phòng thủ theo cụm đảo” (Ông đề xuất khái niệm
này trong bài viết “Làm cách nào chặn Trung Quốc” công bố vào khoảng
tháng ba/ tháng tư 2015).
Ông Krepinevich đã hoàn toàn đúng khi cho rằng một số chiến
lược ngăn chặn nhằm chống lại hành động khiêu khích và tấn công của Trung
Quốc trên vùng lãnh thổ quan trọng của đồng minh trong chuỗi đảo đầu tiên có
ý nghĩa răn đe để đề phòng tình huống xấu nhất. Tuy nhiên, ông vẫn chưa
làm rõ chiến lược này có liên hệ thế nào đến tình hình an ninh tổng thể
của nước Mỹ trong khu vực. Và ông cũng không đề cập tới những vấn đề chiến
lược quan trọng đang thách thức chính quyền Washington, đấy là sự xuống
sức không thể phủ nhận của cả quân đội và ưu thế kinh tế ở vùng duyên hải
châu Á.
Đối với những nhà phân tích như Krepinevich, chắc chắn rằng những
cường quốc mới trỗi dậy như Trung Quốc sẽ tìm kiếm sự thống trị bằng quyền
lực cứng và thách thức chủ yếu với những siêu cường hiện đang kiểm soát
khu vực như Hoa Kỳ là làm cách nào ngăn chặn diễn biến này. Dạng tư duy
một mất một còn như vậy, hiện ngày càng phổ biến ở cả hai phía Thái
Bình Dương, đang làm tình hình khu vực ngày càng căng thẳng, cũng như
làm suy yếu mọi nỗ lực duy trì hòa bình và thịnh vượng vốn là mục tiêu
chung. Cả hai siêu cường sẽ cùng được lợi từ một hướng tiếp cận khác với
cách đối đầu trên, thay vì hai phía phải lao vào thế cục phân tranh
quyền lực ngày càng gay gắt xung quanh ưu thế của nước Mỹ trong khu vực,
họ có thể cùng thỏa thuận để đạt đến một trạng thái cân bằng quyền
lực chính thức về dài hạn ở vùng tây Thái Bình Dương dựa vào sự kiềm
chế lẫn nhau về quân sự và chính trị, bên cạnh những điều chỉnh để
thích nghi, cũng như những chính sách được hoạch định để giảm mức căng
thẳng ở những điểm nóng như bán đảo Triều Tiên và Đài Loan.
VIỄN CẢNH XUNG ĐỘT
Hầu như mọi quan chức Mỹ và các nhà lãnh đạo châu Á tin rằng quyền
lực đại dương của người Mỹ đã kiến lập nền tảng cho một giai đoạn 70 năm
tương đối hòa bình và thịnh vượng trên hầu khắp khu vực châu Á – Thái
Bình Dương, cũng như ngăn chặn mọi dấu hiệu chạy đua vũ trang, xung đột
quân sự và hỗ trợ cho những mục tiêu tập trung phát triển kinh tế trong hòa
bình. Tuy nhiên, nhiều người Trung Quốc tin rằng trong một thế giới ngày càng
phân cực và phụ thuộc lẫn nhau, nền hòa bình và thịnh vượng nên dựa vào
trạng thái cân bằng tương đương của quyền lực, cả trên phạm vi toàn cầu hay
giữa các cường quốc của khu vực, và các quốc gia này cần phối hợp trong
việc đối mặt với những thách thức chung, đối thoại bất cứ khi nào có thể
thông qua các tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc.
Trong những chừng mực nhất định, tất cả những quan điểm trên
đều không vì lợi ích chung. Bản thân chính quyền Washington sẽ hưởng
lợi nhiều nhất từ một trật tự thế giới do nước Mỹ dẫn đầu, với
những quan điểm và lập trường của họ luôn được ưu tiên, còn chính
quyền Bắc Kinh sẽ được lợi trong một viễn cảnh của sự bình đẳng hơn về
quyền lực, với khả năng đưa ra tiếng nói và truy vấn có sức nặng hơn
với Hoa Kỳ. Nhưng chính giới lãnh đạo ở mỗi nước cũng thực sự nghĩ rằng vị
trí của họ đã phản ánh chính xác bức tranh hiện tại và tương lai của trật
tự quyền lực toàn cầu. Người Mỹ thường tin rằng hòa bình và ổn định sẽ
được tạo điều kiện phát triển mạnh dưới quyền bá chủ của nước Mỹ, nghĩa
là trật tự ấy có thể và cần được gìn giữ, trong khi những người
đồng cấp Trung Quốc của họ cho rằng quyền bá chủ như vậy là một hiện trạng
bất thường của lịch sử và cần phải được thay thế bằng một sự tái phân
bổ quyền lực, và đấy chính là những gì họ đang làm.
Trong phần lớn thời kỳ hậu chiến, những lập trường khác biệt
này vẫn có thể cùng tồn tại tương đối dễ dàng, chủ yếu là vì khi ấy Bắc
Kinh quá yếu để có thể bảo vệ quan điểm riêng của mình, với nền kinh tế
vẫn tăng trưởng đều đặn trong trật tự do Mỹ bảo trợ. Nhưng thời thế đã thay đổi;
Trung Quốc đã đủ lớn mạnh để không phải ngồi chiếu dưới nữa, cũng như
khẳng định quan điểm về trật tự quyền lực ở phía tây Thái Bình Dương.
Diễn biến này này thực ra không có gì đáng ngạc nhiên đối với
bất cứ ai am hiểu lịch sử Trung Quốc hiện đại, am hiểu về những quá
trình chuyển giao quyền lực đất nước này đã trải qua. Động cơ để Bắc
Kinh vẫn phải tiếp tục làm việc với Washington, cũng như với cả thế giới
phương Tây luôn hiện hữu, đấy không chỉ vì mục đích duy trì tăng trưởng
kinh tế liên tục mà còn để đối mặt với một loạt những biến động lớn
ngày càng gia tăng trên toàn cầu và ở phạm vi khu vực, từ các đại dịch,
tới những thảm họa do biến đổi khí hậu và mối đe dọa từ chủ nghĩa khủng
bố. Đồng thời, cũng dễ hiểu rằng bản thân chính quyền Bắc Kinh luôn muốn
giảm thiểu mức độ dễ tổn thương trước những mối đe dọa tiềm tàng từ Hoa
Kỳ và các quốc gia khác trong khi vẫn phải tăng cường sức ép tổng thể dọc
theo biên giới hàng hải chiến lược quan trọng nhất. Trong khi quyền lực
quốc tế và ảnh hưởng ngày càng lớn, lợi ích nước ngoài càng mở rộng, và
nhất là những kẻ ủng hộ chủ nghĩa dân tộc trong nước ngày càng hành động
quyết liệt hơn, chính quyền Bắc Kinh sẽ tự khắc ở vào trạng thái ít
khả năng chấp nhận vô điều kiện những mối liên hệ và trật tự về quân sự,
chính trị, kinh tế mà chính quyền này tin rằng luôn tiềm ẩn bất công và
chỉ có lợi cho các nước phương Tây. Và quốc gia này sẽ ngày càng lo ngại
viễn cảnh Washington dùng đến áp lực hay thậm chí là vũ lực để cố gắng
làm suy yếu hệ thống an ninh hàng hải của Trung Quốc ở phía tây Thái Bình
Dương, kéo theo đó chặn đứng cả những nguy cơ suy giảm về quyền lực
và uy thế chính trị của Hoa Kỳ.
Nhiều quan sát viên Trung Quốc hiện nay tin rằng sự yếu kém trong quá
khứ của chính quyền Bắc Kinh và nhu cầu hiện tại phải hợp tác với Hoa Kỳ
nói riêng và phương Tây nói chung đã làm cho chính quyền này trở nên quá
dễ dãi hoặc bị động trong việc đối phó với những thách thức vi phạm đến cả
những lợi ích quốc gia quan trọng nhất của Trung Quốc, từ việc Mỹ không
ngừng viện trợ cho đảo Đài Loan và cả những nước châu Á có liên quan
đến tình hình căng thẳng trong khu vực, đến những hoạt động do thám
tầm gần của Mỹ và những hành vi thu thập tin tình báo dọc theo bờ biển
Trung Quốc.
Sự phát triển đến mức cực đoan của hình thái chủ nghĩa dân
tộc này luôn tạo ra áp lực có thể thay thế chính sách chủ yếu của
Trung Quốc vốn theo đuổi mục tiêu “phát triển trong hòa bình” về lâu dài,
trong đó tập trung vào việc duy trì quan hệ thân thiện với Hoa Kỳ và các cường
quốc khác, bằng một đường lối quyết liệt hơn nhằm phá hoại của uy quyền
của Mỹ ở khu vực châu Á. Trọng tâm trong chính sách đối ngoại của Chủ tịch
Trung Quốc Tập Cận Bình chính là một bước tiến rõ rệt theo hướng cực đoan này,
nhấn mạnh ở một mức độ chưa từng thấy thái độ kiên quyết của Trung Quốc
trong việc quản lý các vấn đề thuộc lãnh thổ và chủ quyền những vùng biển
phía đông và phía nam.
Trong khi dõi theo những biến động này, nhiều quan sát viên của Mỹ
và các nước khác nhận ra sự khởi đầu của một tham vọng còn lớn hơn, không
chỉ nhằm chấm dứt sự hiện diện của quyền uy của nước Mỹ ở châu Á,
mà còn để thay thế quốc gia này và trở thành siêu cường hàng đầu
trong khu vực, và thậm chí có thể trên toàn cầu. Những khẳng định chắc
chắn hơn của Trung Quốc đối với vấn đề tranh chấp lãnh hải, cũng như với
hoạt động tình báo, giám sát của Mỹ và Nhật dọc theo lãnh hải của quốc
gia này được xem là hàn thử biểu đối với nước Mỹ và quyết tâm của cả
liên minh, cũng là bước đầu cho việc kiến tạo những khu vực cấm di
chuyển để làm nền tảng cho quá trình thiết lập quyền kiểm soát của
Trung Quốc trên khu vực tây Thái Bình Dương. Từ góc nhìn này, hướng hành
động thích hợp nhất với chính quyền Washington là dứt khoát cảnh tỉnh để
Bắc Kinh từ bỏ tham vọng bằng cách tăng cường ưu thế quân sự của Mỹ tại
đây, tăng cường khai thác điểm yếu của Trung Quốc ở Tây Thái Bình Dương, và
khẳng định rõ ai đang làm chủ trong vùng biển sau 12 hải lý của lãnh hải
của Trung Quốc.
Vấn đề với viễn cảnh này, vốn đã tiềm tàng trong khái niệm
“Phòng thủ theo cụm đảo” do nhà phân tích Krepinevich đề xuất, là nó
phán đoán sai động thái của Trung Quốc và do đó không hề giảm nhẹ mà
chỉ càng làm trầm trọng thêm những xung đột luôn tiềm ẩn. Tham vọng thực
tế của Bắc Kinh để giới hạn hoặc chấm dứt ưu thế quân sự của nước
Mỹ dọc theo lãnh hải của họ họ được thúc đẩy bởi trạng thái bất định,
bất an và chủ nghĩa cơ hội chứ không phải bởi một tầm nhìn chiến lược lớn về
quyền thống trị của Trung Quốc. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc hiện nay không
hề cố gắng tạo lập một khu vực nhất định để áp đặt quyền thống
trị, đặc biệt là đối với vấn đề quyền lực cứng; họ đang cố gắng giảm
thiểu mức độ dễ tổn thương đáng kể của họ, cũng như gia tăng đòn bẩy
chính trị, ngoại giao và kinh tế ở khu vực sân sau. Đây là một mục tiêu ít
tham vọng và trong nhiều chừng mực cũng dễ hiểu hơn để tạo lập quyền
lực của đại lục. Như vậy, chính quyền Bắc Kinh không nhất thiết phải
uy hiếp đến cả những lợi ích sống còn của Mỹ hoặc các đồng minh, chiều
hướng đối ngoại như vậy nên được đáp lại bằng một số nỗ lực thỏa
hiệp hơn là thái độ sẵn sàng gây hấn.
NHỮNG XU HƯỚNG KHÔNG BỀN VỮNG
Uy thế của quân đội Mỹ ở Tây Thái Bình Dương không thể được biện minh
bởi nhu cầu đối kháng với một Trung Quốc đang trỗi dạy và muốn thay
thế nó, hay trách nhiệm đảm bảo trật tự khu vực (và cả trên toàn cầu). Không
thể có chuyện Bắc Kinh sẽ vĩnh viễn chấp nhận ưu thế của Mỹ và Hoa Kỳ được
toàn quyền tự do hành động ở Thái Bình Dương, cũng như thừa nhận khả năng
chiến thắng của quân đội Mỹ trong một cuộc xung đột quân sự tiềm năng. Do
đó, động thái cố gắng duy trì uy thế quân sự như vậy, thực tế chính là con
đường ngắn nhất để dẫn tới một cuộc chạy đua vũ trang thường trực và
luôn được đảm bảo, cũng như gia tăng tình trạng phân cực trong khu vực, và
giảm sâu hơn nữa khả năng hợp tác giữa Washington và Bắc Kinh trong việc
chung tay giải quyết những thách thức toàn cầu. Và thậm chí nếu một số nhà
lãnh đạo Trung Quốc có thể bị thuyết phục để thừa nhận quyền lực luôn
hiện diện của người Mỹ ở khu vực này, họ gần như chắc chắn sẽ phải
chịu đựng sự phê phán khốc liệt và liên tục của dư luận trong nước vì
dám làm vậy trong khi Trung Quốc vẫn đang trỗi dậy và thường sau đấy
phải làm ngược lại để bảo đảm sự tồn vong chính trị của họ.
Trong khi đó, những kế hoạch duy trì ưu thế quân sự của Mỹ trong
khu vực sẽ càng lúc càng khó thực hiện và tốn kém hơn. Một nghiên cứu mới
đây của Quỹ Carnegie vì Hòa bình Quốc tế[3] (tôi
là đồng tác giả) về môi trường an ninh lâu dài ở châu Á đã kết luận rằng Hoa Kỳ
sẽ vẫn là cường quốc quân sự đứng đầu trên phạm vi toàn thế giới trong nhiều
năm nữa. Nhưng nghiên cứu này cũng cho thấy chính quyền Washington gần như
chắc chắn sẽ đối đầu với những hạn chế kinh tế ngày càng trầm trọng về chi
tiêu quốc phòng trong nỗ lực cố gắng dẫn trước một quân đội Trung Quốc
ngày càng lớn mạnh với sự hiện diện của một lực lượng bán quân sự trong
vòng khoảng 1.500 hải lý tính từ bờ biển Trung Quốc (có nghĩa là, một vùng
biển bao gồm cả chuỗi đảo thứ nhất và thứ hai[4]).
Tuy nhiên, Trung Quốc cũng phải đối mặt với thách
thức tương tự như những gì Hoa Kỳ gặp phải để đạt được quyền thống
trị trên biển. Những nghiên cứu của quỹ Carnegie cũng kết luận rằng uy
thế quân sự của Mỹ ở châu Á gần như chắc chắn vẫn còn rất mạnh và thậm chí
ngay cả khả năng quân sự vẫn đang tiến bộ vượt bậc của Trung Quốc cũng sẽ
không đem lại cho Bắc Kinh khả năng vượt trội rõ ràng. Do đó, bất kỳ nỗ lực
nào của Trung Quốc nhằm thiết lập quyền kiểm soát ở châu Á sẽ thất bại,
đều vì Trung Quốc sẽ không bao giờ dễ dàng vượt mặt Hoa Kỳ, và nguy cơ
về một viễn cảnh như vậy sẽ càng tạo cảm giác lo sợ nơi những nước xung
quanh và đẩy họ vào thế liên minh với Washington.
Giới lãnh đạo Trung Quốc cũng hiểu được điều này và như vậy
sẽ không mạo hiểm vì quyền thống trị nếu như họ có thể đạt được
một phần ưu thế quân sự và khả năng kiểm soát như vậy bằng những
cách thức ít rủi ro hơn. Họ chỉ có thể chấp nhận đánh cược vì một
cuộc phiêu lưu quyền lực như vậy (theo cách đối nghịch với những điệu
bộ hòa hoãn để tìm cơ hội trong hình thức của những động thái hạn
chế hơn) chỉ khi lời nói và hành động của Washington khiến họ tin rằng ngay cả
mức tối thiểu về quyền lực trên biển mà họ muốn đạt được cũng buộc họ
phải đánh cược như vậy. Thật không may, việc Hoa Kỳ áp dụng những thuật
ngữ quân sự mang nhiều tính đối kháng, điển hình là khái niệm
“chiến tranh không – hải”, hay “kiểm soát xa bờ”, hoặc thậm chí là “phòng
thủ theo cụm đảo”[5], sẽ càng khiến Trung Quốc phải đáp
trả bằng những biện pháp tương ứng và như vậy góp phần dẫn đến một
viễn cảnh ngày càng xấu của an ninh hàng hải ở Tây Thái Bình Dương.
Còn tiếp…
________
[1] Andrew F. Krepinevich, Jr. là một nhà phân
tích chính sách quốc phòng, hiện giữ chức Chủ tịch Trung tâm Đánh giá Chiến
lược và Ngân sách (Center for Strategic and Budgetary Assessments) của Hợp
chủng quốc Hoa Kỳ.
[2] Chuỗi đảo
thứ nhất: hệ thống phòng thủ do Mỹ xây dựng từ thời Chiến tranh
Lạnh, với bốn điểm trọng yếu là Hàn Quốc (đầu chuỗi đảo),
Philippines (đuôi chuỗi đảo), Đài Loan (khóa chuỗi đảo), Nhật Bản
(trọng tâm).
[3] The
Carnegie Endowment for International Peace: Một viện chính sách chuyên
nghiên cứu chính sách đối ngoại với những trụ sở ở Washington,
Moscow, Beirut, Bắc Kinh và Brussels, thành lập năm 1910 bởi Andrew
Carnegie, hoạt động của tổ chức này thường không bị chi phối bởi bất
kỳ đảng phái chính trị nào, hoạt động vì nỗ lực thúc đẩy hợp tác
giữa các quốc gia.
[4] Chuỗi đảo thứ hai: những hòn đảo xa
hơn ở phía đông Thái Bình Dương, bao gồm quần đảo Marianas, Carolines và cả
lãnh thổ Guam của Mỹ-nơi có căn cứ không quân Andersen
Phía Trước
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét