Phan Văn Song
29-9-2014
trích từ: " Đừng Để Ánh Sáng Ảo Của « Đèn Cù » Che Quyền Người Dân Lật Đổ Bạo Quyền
29-9-2014
trích từ: " Đừng Để Ánh Sáng Ảo Của « Đèn Cù » Che Quyền Người Dân Lật Đổ Bạo Quyền
Bài 2 :B/ Mạnh Dạn
Đòi Quyền Người Dân để Lật Đổ Bạo Quyền "
LTG: Tuần trước, chúng tôi mượn sách Đèn Cù của Trần Đĩnh để nói đến cái hiện
tượng đấu tranh chống Cộng, chống Bạo quyền bằng gởi gắm, xin cho (xin
cho qua những kiến nghị, kêu gọi, thư gởi…cho nhà cầm quyền, cho Đảng cầm
quyền) và đau thương hơn nữa là hiện tượng bán cái…
Bán cái cho các Tôn
giáo, các vị lãnh đạo tinh thần, bán cái cho dư luận Mỹ, công luận Mỹ đòi Quốc
hội Mỹ trừng phạt Việt Nam, ghi Việt Nam vào bảng phong thần các nước bê bối
thiếu tự do …Bán cái cho Quốc tế trừng
phạt. Nói tóm dân ta không dám tự cởi trói, tự giải phóng ,tự làm một mình, chỉ đi nhờ cậy…
Và nay, qua Trần Đĩnh, các nhà bình luận sách ồn ào « phấn khởi, hồ hởi »- đành phải xài từ Cộng sản vậy !- kẻ khen hay quá hay nói toàn sự thật, và người nói theo Bùi Tín trên đài BBC, bảo đậy là quả bom ! Tầm bậy ! Bom cho ai ? Chỉ cho các Bùi Tín, cho các Trần Đĩnh và cho các đảng viên Cộng sản, chứ với chúng tôi người việt nạn nhơn Cộng sản ở Hải ngoại hay ở quốc nội đều biết rõ Sự Thật !
Với 20 năm cha chú chúng tôi đánh nhau với
Cộng sản với Việt Cộng vì đã biết Sự Thật rồi, với 1 triệu người di cư vào Nam
năm 1954 cũng vi họ đã biết Sự Thật rồi.
Ngày nay các con cháu, các hậu duệ của những người đã đánh Cộng, đã thoát
Cộng, đã trốn Cộng, kẻ thoát được (gần 3 triệu người) người nạn nhơn tù đày, chết trên rừng núi, chết
ngoài biển cả (trại tù, vượt ngục, vượt biên, vượt biển), kẻ tiếp tục
tù Cộng, tù lớn tù nhỏ, người nô lệ Cộng, trai bán sức, gái bán trôn cho
ngoại nhơn… Chúng tôi đám con cháu, chúng tôi đã biết cả chẳng những Sự Thật mà
còn cả Mặt Thật của Công sản.
Vì vậy chúng tôi hôm nay xin bày tỏ chia sẻ cùng tất cả bà con rằng chỉ có
nổi dậy lật đổ Bạo quyền là con đường duy nhứt là chánh nghĩa vì đó cũng là một
Nhơn quyền.
I / Nhơn quyền trong tiến trình văn minh nhơn loại:
Ngày nay ai cũng biết nhơn quyền là điểm hẹn của văn minh
nhơn loại vào đầu thế kỷ XXI. Nhưng nhơn quyền là gì? lại thường thường không
được định nghĩa rõ rệt để có thể tránh những ngộ nhận hoặc những lạm dụng cho
hậu ý chánh trị bất chánh. Nhà cầm quyền cộng sản Hà nội luôn luôn đưa ra
luận điệu theo đó nhơn quyền là một khái niệm của tây phương, đặc
biệt là của giai cấp tư sản, chớ không phải của Việt Nam.
Sự thực, ngày nay, nhơn quyền là một ý niệm chung của người tiến bộ. Theo ý niệm nầy, nhơn quyền là những đặc quyền của con người được pháp luật qui định và do pháp luật chi phối, nhằm bảo vệ con người trong đời sống xã hội, giữa con người với con người và trong mối quan hệ giữa người dân với nhà cầm quyền. Nhơn quyền là nguồn gốc thực tế của sự tự do của con người. Sự tự do này đã được thể hiện thành nhiều quyền tự do cụ thể, có tiêu chuẩn rõ rệt được pháp luật bảo vệ. Trong số những quyền tự do ấy, có những thứ phải coi đó là cơ bản, không thể bị tiêu diệt, không thể chuyển nhượng, không ai, kể cả nhà câm quyền có thể xâm phạm tước đoạt. Tưởng cũng nên nói rõ, những đặc quyền ấy là những quyền tối thiểu của con người, không thể thiếu, bởi nếu không còn những quyền nầy thì con người sẽ mất hết phẩm gía, bị hạ xuống hàng súc vật.
Sự thực, ngày nay, nhơn quyền là một ý niệm chung của người tiến bộ. Theo ý niệm nầy, nhơn quyền là những đặc quyền của con người được pháp luật qui định và do pháp luật chi phối, nhằm bảo vệ con người trong đời sống xã hội, giữa con người với con người và trong mối quan hệ giữa người dân với nhà cầm quyền. Nhơn quyền là nguồn gốc thực tế của sự tự do của con người. Sự tự do này đã được thể hiện thành nhiều quyền tự do cụ thể, có tiêu chuẩn rõ rệt được pháp luật bảo vệ. Trong số những quyền tự do ấy, có những thứ phải coi đó là cơ bản, không thể bị tiêu diệt, không thể chuyển nhượng, không ai, kể cả nhà câm quyền có thể xâm phạm tước đoạt. Tưởng cũng nên nói rõ, những đặc quyền ấy là những quyền tối thiểu của con người, không thể thiếu, bởi nếu không còn những quyền nầy thì con người sẽ mất hết phẩm gía, bị hạ xuống hàng súc vật.
Ở tây phương, cố hương của nhơn quyền phải nói là Hi-lạp
và La-mã. Tuổi thọ của nhơn quyền có lẽ đã đến 2000 năm hơn. Nhờ bởi nền dân
chủ La-Hi mà nhơn quyền, qua thời gian, đã có được những bước tiến mạnh mẽ, bắt
đầu bằng sự khẳng định "quyền làm
con người" ( le droit d'être un homme) bao gồm những quyền tự nhiên
không thể chuyển nhượng , không thể tiêu diệt. Sau đó đế quốc la mã sụp đỗ, mãi
đến thế kỷ thứ XIII nhơn quyền ở tây phương chợt như bừng tỉnh, sau một giấc
ngủ dài trong bóng đêm trung cỗ, nhờ sự ra đời của bản Đại Hiến Chương
nhằm giới hạn bớt quyền hành của nhà vua Anh. Từ đắy, nhơn quyền bước được
những bước dài vững chắc qua bản Thỉnh Nguyện Thư Dân Quyền 1628, Luật Bảo Thân
( Habéas Corpus) 1679, Điều lệ Dân Quyền 1689 của nước Anh, Tuyên Ngôn Độc Lập
Huê Kỳ 1776, rồi Tuyên Ngôn Nhơn Quyền và Công Dân Quyền 1789 của Pháp..
Hai cuộc cách mạng Mỹ và Pháp bùng nổ vào thế kỷ XVlll đã
phục hồi địa vị con người cho chính con người và đối với những kẻ cầm quyền của
các chế độ chuyên chế. Từ đây, nhơn quyền đã định hình với những chìu kích rõ
nét. Qua hậu bán thế kỷ qua thì nhơn quyền đạt được những bước nhảy vọt chưa
từng thấy ở thời gian trước kia.
Về bản chất, vào thuở ban sơ, nhơn quyền tuy được hiểu là
quyền tự nhiên của con người nhưng vẵn còn bị qui chiếu vào thần quyền, theo sự
suy diển chủ quan của triết gia tây phương. Nhưng đến cuối thế kỷ XX thì những
giá trị này đã được định chế hoá nên đã trở thành những giá trị khách quan, để
không còn ai có thể ngang nhiên xâm phạm được nữa. Nhơn quyền đã trở thành những giá trị phổ quát, không giành riêng để
phục vụ một lớp người nào ở một địa phương nào nữa.
Về mặt thực tế nhơn quyền từ nửa thế kỷ qua đã được áp
dụng chặc chẽ hơn để con nguời trên khắp thế giới không còn phân biệt đối xử,
bị ngược đãi làm tổn thương đến mạng sống và nhơn phẩm. Các định chế quốc gia
và quốc tế đã hợp lực bảo vệ nhơn quyền, đồng thời còn thăng tiến đến mức hoàn
chỉnh hơn.
Thật vậy, Hiến chương Liên Hiệp Quốc 1945, Tuyên ngôn Quốc tế Nhơn Quyền 1948, hai Công ước Quốc tế về quyền dân sự, chánh trị, kinh tế xã hội, văn hóa 1966 đã thật sự đưa từ ngữ Nhơn Quyền từ thế giới ngôn ngữ, tư tưởng qua thực tế áp dụng cụ thể vào đời sống hằng ngày của con người trên hoàn vũ. Song song với áp dụng những biện pháp chế tài để trừng trị những vi phạm thô bạo nhơn quyền đã được tổ chức và thực thi mà những cơ quan tư pháp hình sự quốc tế có thẩm quyền rộng lớn ra đời trong thập niên 90 vừa qua.
Thật vậy, Hiến chương Liên Hiệp Quốc 1945, Tuyên ngôn Quốc tế Nhơn Quyền 1948, hai Công ước Quốc tế về quyền dân sự, chánh trị, kinh tế xã hội, văn hóa 1966 đã thật sự đưa từ ngữ Nhơn Quyền từ thế giới ngôn ngữ, tư tưởng qua thực tế áp dụng cụ thể vào đời sống hằng ngày của con người trên hoàn vũ. Song song với áp dụng những biện pháp chế tài để trừng trị những vi phạm thô bạo nhơn quyền đã được tổ chức và thực thi mà những cơ quan tư pháp hình sự quốc tế có thẩm quyền rộng lớn ra đời trong thập niên 90 vừa qua.
Trong những năm cuối thế kỷ, nhơn quyền khoác lên mình
thêm một đặc tính mới để thích ứng với sự chuyển biến của thế giới. Nhơn quyền trở thành những cưởng
chế được thực thi để nhân đạo hóa đời sống xã hội ở khắp nơi, kể cả việc can
thiệp trực tiếp vào chiến tranh, can thiệp trực tiếp vào đời sống các quốc gia
có đầy đủ chủ quyền nếu phải nhằm mục tiêu bảo vệ quyền làm người ở đó.
Ngày nay nhơn quyền đã làm thay đổi hoàn toàn về quan niệm chủ quyền quốc
gia và mối bang giao quốc tế. Giá
trị con người được thừa nhận là tối hậu và cao hơn mọi giá trị khác.
Phải chăng những bước tiến nhơn quyền đã thật sự khép lại
vĩnh viễn một giai đoạn lịch sử dài mà suốt qua đó những chánh sách bạo
tàn của các vua chúa, của
các chế độ phi nhơn quyền như
phát-xít, cộng sản đã giết hại hằng
trăm triệu nhơn mạng? Và một thời đại văn hoá nhơn quyền sẽ thật sự
bắt đầu từ nay?
Thật tình, chúng ta có thể giữ cái nhìn lạc quan ấy nếu
Tàu, Bắc Hàn, Việt Nam và một số nước Hồi giáo cực đoan sẽ lần lượt sớm chuyển
hoá theo chánh trị dân chủ tự do.
II / Nhơn quyền ở Việt nam cho đến
khi người cộng sản tới:
Việt Nam chắc chắn cũng phải có một lịch sử nhơn quyền
lâu đời. Nhưng không giống phương tây. Trong ngôn ngữ chánh trị Việt Nam trứơc
đây không có những từ ngữ như Nhơn Quyền, Dân Chủ. Mãi đến thế kỷ thứ XIV nhũng
từ ngữ này từ tây phương du nhập qua Nhựt bổn rồi vào Việt Nam. Nói như thế
không có nghĩa là vào thời ấy ở Việt Nam người dân không được sống xứng đáng
với địa vị con người và những quyền lợi của mình đã không được chánh
quyền tôn trọng. Xã hội Việt Nam dưới thời quân chủ đã được tổ chức theo cơ cấu
nhà vua ngự trị trên cao, còn thứ dân chiếm địa vị thấp nhứt. Mỗi người có riêng bổn phận phải chu toàn. Vậy khi nhà vua làm tròn bổn phận của nhà vua
thì tự nhiên toàn dân hưởng được
những phúc lợi, đại để phù hợp với những điều mà ngày nay chúng
ta gọi là nhơn quyền.
Bổn phận của nhà vua còn được gọi là thiên mệnh. Còn dân chúng là nền
tảng xã hội, hay dân bản. Khi nền
tảng vững chắc thì quốc gia yên ổn, vững bền. Trong việc thi hành trách nhiệm
của thiên mệnh nhà vua bị Trời kiểm soát qua đời sống của dân chúng. Bởi ý Dân là ý Trời. Nếu nhà vua không làm tròn bổn phận của mình đối với
dân, mà còn tàn bạo đối với dân chúng thì lập tức, Trời sẽ theo ý dân mà thu hồi Thiên mênh. Trong suốt dòng lịch sử
Việt Nam, phần lớn các vua đêù cố gắng
làm tròn bổn phận đối với thần dân. Dưới những triều đại ấy, dân chúng
hưởng được những phúc lợi mà ngày nay ta
gọi là nhơn quyền.
Nhơn quyền dưới thời quân chủ cực thịnh ở Việt Nam còn
được nới rộng đến quyền chánh trị. Người dân nhờ tài đức đêù có thể tham gia
chánh quyền qua các cuộc thi tuyển thường
được tổ chức rất công bình. Chỉ có ngôi vua mới truyền lại trong phạm vi hoàng
tộc mà thôi.
Từ thời nhà Lý, vào thế kỷ thứ XI, Việt Nam đã mở ra
những khoa thi để chọn người tài ra giúp nước. Ngoài ra các chế độ quân chủ ở
Việt Nam thời xưa, chẳng những cho phép, mà còn khuyến khích mọi người hãy bày tỏ quan điểm chánh trị của mình.
Quan chức và dân chúng có quyền dâng sớ
phê phán triều đình hoặc bày tỏ nguyện vọng của mình. Cho đến gần đây, vua
Minh Mạng nhiều lần nói với các quan rằng việc nước quá nhiều mà sự hiểu biết
của một người thì quá giới hạn. Bởi vậy, chúng ta cần biết ý kiến của nhiều
người để có cái nhìn đúng và có giải pháp thích nghi.
Đối với tù binh, các vua Lê Thái Tổ và Quang Trung cung
cấp lương thực , phương tiện và cho phép chúng trở về Tàu an toàn. Vua Quang
Trung còn cho lập đàn trai giải oan cho quân Thanh tử trận.
Về mặt luật pháp, các chế độ quân chủ ở Việt Nam thời xưa
đêù quan tâm đến việc bảo đảm cho dân chúng có một xã hội công bằng, lấy đạo
đức làm nền tảng. Hai bộ luật còn được xử dụng cho đến thập niên 70, với
những cải tiến, đó là "Quốc Triều Hình Luật" và "Hoàng Việt luật
lệ" Hai bộ luật này phạt rất nặng, có khi tử hình, những tội phạm quan chức sách nhiễu, tham nhũng, hối mại quyền thế qua trung gian vợ con, người thân
trong họ hoặc gia nhơn. Án tử hình thường phải do nhà vua quyết định cuối cùng.
Hai bộ luật nầy đêù rất tôn trọng nữ quyền. Hình phạt dành cho phụ nữ luôn luôn
nhẹ hơn. Trong gia đình, về quyền lợi, người phụ nữ có đầy đủ quyền lợi như
người đàn ông. Quốc Triều Hiònh Luật qui định rõ thời hạn các vụ án phải được
kết thúc nhanh để tránh mất thì giờ của đôi bên. Điều này được xem là rất tiến
bộ so với một số quốc gia phương tây ngày nay.
Về kinh tế xã hội,
chế độ quân chủ Việt Nam quan tâm bảo đảm cho mỗi người dân có được một đời sống tối thiểu bằng cách cấp phát
cho mỗi người một phần đất để tự mưu sanh. Từ thời nhà Lê, vua Lê Thái Tổ đã thực hiện chánh sách cải cách ruộng đất, trưng
thu ruộng đất của các triều đại trước, của những quan chức làm giàu bất chánh,
của những người không có thừa kế để cấp phát đồng đêù cho dân chúng canh tác.
Việc cấp phát này được xét lại mỗi bốn năm. Về sau, việc xét lại theo mười năm
một lần.
Qua thời nhà Nguyễn, nhờ mở mang trong Nam, nên việc cấp
phát ruộng đất được rộng rải hơn, và giao cho địa phương đảm trách. Nhà Nguyễn còn nghiên cứu trưng tập các tư
điền của nhà giàu lớn, lấy 3/10 diện tích để xung vào công điền cấp phát
cho cô nhi quả phụ thương phế binh. Dưới thời quân chủ cực thịnh ở
Việt Nam, người dân tương đối đêù được hưởng khá đày đủ các quyền lợi mà ngày
nay chúng ta gọi là Nhơn Quyền.
III / Nhơn quyền theo
người mác-xít:
Nền tảng chủ nghĩa mác-lê là vật chất và biện chứng. Theo quan niệm duy vật, người mác-xít chối
bỏ mọi giá trị tinh thần như luân lý, đạo đức. Theo biện chứng, người cộng
sản không cho có những giá trị vĩnh viễn. Theo quan niệm căn bản ấy người cộng sản mác-lê từ khước những quyền
tự nhiên bất khả nhượng của con người như quyền sống, quyền tư hữu, quyền tự do. Theo người cộng sản,
nhơn quyền chỉ là phản ánh những quyền lợi về kinh tế. Đó là những quyền lực
của giai cấp thống trị.
Từ quan niệm này, người cộng sản phê bình bản Tuyên ngôn
nhơn quyền và dân quyền 1789 của Pháp cho đó là thành quả thắng lợi của giai
cấp tư sản đối với giai cấp quí tộc, là vũ khí để bảo vệ quyền lợi
và uy quyền của họ mà thôi. Nhơn quyền theo đó chỉ dành cho những người có của,
có tiền.
Đối với những người nghèo khó, nhơn quyền không có lợi gì
hết. Đi xa hơn nữa trong lý luận, người cộng sản cho rằng những quyền tự do
cũng chỉ là thứ tự do hình thức, hoàn toàn không chứa đựng một "nội dung
thực tế, cụ thể"
Đối với người cộng sản, nhơn quyền có ý nghĩa thực tế chỉ
trong một xã hội không giai cấp và không có chiếm hữu những phương tiện sản
xuất. Nên chỉ có chế độ cộng sản mới đem lại cho mọi người sự tự do thật sự,
nghĩa là sự tự do có nội dung cụ thể, chứ không phải thứ tự do hình thức.
Rõ hơn, chúng ta hãy đọc lại lời của Các Mác viết về nhơn
quyền :
« Chúng ta hãy xem những thứ cho là nhơn quyền, trong nguyên trạng, của những người đã khám phá ra nó; đó là những người Bắc Mỹ và Pháp. Chúng ta sẽ nhận thấy ngay nhơn quyền, ngược lại với dân quyền, không gì khác hơn là những quyền của một thành phần thuộc xã hội tư sản nghĩa là của con người ích kỷ, của con người tách rời khỏi quần chúng. Quyền tự do của con người không được thiết lập trên mối quan hệ giữa người với người, mà trái lại, trên sự tách rời giữa người với người. Đúng hơn nhơn quyền như vậy chỉ là quyền chia cách giữa con người với nhau. »
« Chúng ta hãy xem những thứ cho là nhơn quyền, trong nguyên trạng, của những người đã khám phá ra nó; đó là những người Bắc Mỹ và Pháp. Chúng ta sẽ nhận thấy ngay nhơn quyền, ngược lại với dân quyền, không gì khác hơn là những quyền của một thành phần thuộc xã hội tư sản nghĩa là của con người ích kỷ, của con người tách rời khỏi quần chúng. Quyền tự do của con người không được thiết lập trên mối quan hệ giữa người với người, mà trái lại, trên sự tách rời giữa người với người. Đúng hơn nhơn quyền như vậy chỉ là quyền chia cách giữa con người với nhau. »
Người cộng sản gọi
nhơn quyền, những giá trị phổ quát như chúng ta quan niệm, chỉ là những thứ
quyền được " cho là" "gọi là", chứ không phải
là những thứ quyền có thật, được định chế hóa bằng luật pháp. Nên nói chuyện
về nhơn quyền vối người cộng sản không thể được. Thế mà người cộng
sản khi tranh đấu nhằm cướp chánh quyền, trong một chế độ tự do,
dân chủ, lại hành sử những thứ quyền mà họ cho là không tưởng, không có thực
ấy.
Viết cho ngày Nhơn
quyền 11 / 5 /2009
Hiệu đính 27 tháng 9 2014
Hiệu đính 27 tháng 9 2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét