Hoàng
Thanh Trúc
8-9-2014
trich từ: "Chúng ta có quyền,và cần phải biết!"
“Những việc gì quan hệ đến vận mệnh, quyền lợi quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết”.
Cụ thể mà bất cứ ai cũng nhìn thấy, đó là “Ải Nam Quan” nơi
phân định biên giới Việt-Trung, một trọng điểm chứng tích từng tồn tại 4000 năm
lịch sử giữa hai quốc gia, bên này cửa “ải” là đất nước Nam, bên kia cửa “ải” là
đất phương Bắc thì giờ đây Ải Nam Quan đã “bốc hơi” biến mất mà vết tích vị trí
nền móng cũ lại nằm sâu trong nội địa Trung Quốc? Toàn bộ sự kiện hao hụt cương
thổ ấy diễn ra sau hội nghị “bí mật” tại Thành Đô/TQ tháng 9/1990 giữa các chóp
bu 2 đảng CSVN và CSTQ.
Điều 11/Hiến Pháp Việt Nam qui định:
1) “Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm.
2) Mọi hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều bị nghiêm
trị.”
Không còn Ải Nam Quan, nên Đất nước Việt Nam giờ đây chỉ từ
mũi Cà Mau đến Lũng Cú, Hà Giang.
Vậy thì thất thoát cương thổ quốc gia rành rành như thế đó, “lãnh
thổ không còn toàn vẹn” như xưa dưới sự lãnh đạo nhà nước và xã hội của đảng Cộng
sản Việt Nam, ai phải chịu trách nhiệm? Ai là kẻ cần phải bị “nghiêm trị”, theo
Hiến Pháp khi chủ tâm tương nhượng (hay bán rẻ) chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ quốc gia!?
Đó là điều rất quan trọng mà toàn dân tộc rất muốn và có quyền
“phải được biết”, bởi khẳng định từ Hiến Pháp (2013):
“Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, Các cơ quan Nhà
nước, cán bộ, viên chức Nhà nước có nghĩa vụ phải tôn trọng nhân dân, tận tụy
phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám
sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch,
cửa quyền” (điều 8 HP)
Tương tự như vậy khi soi rọi lại quá khứ. Dù Điều thứ 32 Hiến
Pháp nước VNDCCH (miền Bắc năm 1946) qui định:
“Những việc gì quan hệ đến vận mệnh, quyền lợi quốc gia sẽ đưa
ra nhân dân phúc quyết”.
Thì liệu lời này của ông Phạm Văn Đồng viết cho ông Chu Ân
Lai trong công hàm 1958 như sau: “Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí
Tổng lý (Chu Ân Lai) rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán
thành bản tuyên bố ngày 4.9.1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
quyết định về hải phận của Trung Quốc. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan nhà nước có trách nhiệm
triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc”.
“Chi tiết bản tuyên bố ngày 4.9.1958 của Chính phủ nước Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa” có được toàn dân miền Bắc biết đến và phúc quyết theo
Hiến Định trước khi Phạm Văn Đồng ký!??.
Cả 2 trường hợp (công hàm 1958 và Hiệp Định Thành Đô 1990) kẻ
trước người sau các chóp bu CSVN bất chấp ý kiến, không đoái hoài đến nhân dân,
nối tiếp cùng một hành vi “vi Hiến” trắng trợn dẫn đến hao hụt nghiêm trọng cương
thổ quốc gia mà toàn dân Việt Nam không hề được “có quyền biết” dù Hiến Pháp
qui định bắt buộc nhà nước phải cho nhân dân biết, trước khi thừa hành.
Dẫn chứng như vậy để thấy rằng dưới mắt các “chóp bu CSVN” gần
trăm triệu dân Việt chỉ như đàn lừa và giang sơn gấm vóc này là tài sản riêng của
họ.
Không! Không thể im lặng mãi được, chúng ta phải biết những
sự kiện “cần phải biết” mà bản chất của nó diễn ra khác với lẽ thông thường...
Trong mọi tranh chấp, khi “dĩ hòa” không thể là “vi quý” thì
cơ quan tài phán là đích đến của mọi nẻo đường công lý.
Tranh chấp Biển Đông. Theo luật quốc tế, giữa các kháng nghị
có 1 khoảng gián đoạn thời gian 50 năm hoặc nhiều hơn mà các đối tượng im lặng
thì những đòi hỏi lãnh thổ trở nên vô hiệu. Hoàng Sa của Việt Nam đã bị Trung
Quốc đánh chiếm 40 năm rồi (1974). Từ đó đến nay CS/Việt Nam chưa gửi bất kỳ 1
kháng nghị, đơn kiện nào lên Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) và Tòa án Trọng tài
Luật Biển (ATLS) thì chỉ còn 10 năm nữa, nếu không có bất kỳ một kháng nghị hay
đơn kiện nào thì theo Luật biển coi như Việt Nam chấp nhận mất Hoàng Sa và một
số đảo ở Trường Sa vĩnh viễn về tay Trung Quốc. Việc Trung Quốc đã ngang nhiên
hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong EEZ của Việt Nam và đang nỗ lực làm thay đổi
hiện trạng quần đảo Trường Sa cho thấy Việt Nam không thể chần chừ, trì hoãn
trong việc khởi kiện giải quyết tranh chấp biển đảo với Trung Quốc.
Vì sao vấn đề này, nước láng giềng, CP Philippines bác bỏ đàm
phán song phương tiến hành khởi kiện Trung Quốc gần mười năm qua còn các chóp
bu CSVN thì lại “chung thủy trung thành” với đàm phán song phương và không khởi
kiện TQ!? khi mà 100% công luận, chuyên gia công pháp quốc tế đều khuyến cáo và
khuyến khích VN khởi kiện Trung Quốc tức thì! và vô số học giả, sĩ phu, yêu nước
cảnh báo: “Chúng ta sẽ mắc vào một tội rất lớn đối với dân tộc và nhân dân sẽ
không thể nào tha thứ, nếu không khởi kiện”.
Quả là một điều rất “bất bình thường” mà chúng ta gần trăm
triệu dân Việt “cần phải biết”.
Lại càng “cần phải biết” hơn nữa khi 90% các nước cộng sản
trước kia trong đó có cường quốc hàng đầu CS/Xô Viết đã từ bỏ CNXH quay về với đa
nguyên tự do dân chủ thì CSVN huy động ngân sách rất lớn của quốc gia cho một
cuộc góp ý sửa đổi Hiến Pháp (2013) không phải để thăm dò hay xin phúc quyết từ
toàn dân về tương lai của thể chế XHCN mà ngược lại lợi dụng để củng cố thêm điều
4 HP tiếp tục duy trì CS/độc tài toàn trị, đặt quốc gia Việt Nam vào vị thế là
một trong những nước XHCN lẻ loi cô lập trên 190 quốc gia đa nguyên hay tự do dân
chủ trong LHQ!? Thật là ngược chiều với xu thế chính trị văn minh thế giới! Chúng
ta “cần phải biết” tại sao các chóp bu CSVN duy trì sự nghịch lý này.
Cũng nghịch lý không kém mà toàn dân Việt Nam rất “cần phải
biết”.
Một “lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh” mà CSVN tâng bốc đến tận
may xanh thì báo chí quốc tế (polskatimes. Ba Lan) lại điểm danh chỉ mặt HCM là
một trong 13 tên độc tài đẫm máu nhất thế kỷ 20 mà “nhà nước, đảng ta” thì không
có cách gì phản bác được dù có đại sứ quán chính thức tại Ba Lan!?.
Không phải ngẫu nhiên mà mới đây ngày 2/9 trên một danh sách
20 tướng tá đảng viên CSVN, công thần một thời của "nhà nước, đảng ta” cùng
ký tên kiến nghị với tư cách là người chủ và người bảo vệ đất nước Nhân dân, lực
lượng vũ trang “phải được biết” (nguyên văn) chính xác hoàn cảnh thực tế của Quốc
gia. Vì vậy, Nhà nước phải báo cáo rõ ràng với Nhân dân về thực trạng quan hệ
Việt-Trung và về những ký kết liên quan đến lãnh thổ trên biên giới, biển đảo và
các hợp đồng kinh tế ảnh hưởng lớn đến an ninh chủ quyền của Quốc gia và về Hội
nghị Thành Đô…
Không còn như “một đàn cừu” ngoan ngoãn “Quân đội ta trung với
Đảng…” mà đã thức thời nhận diện vị trí chính xác khẳng định từ câu mở đầu
trong thư kiến nghị:“Chúng tôi là những người lính trọn đời “Trung với Nước, Hiếu
với Dân”, luôn trăn trở với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và Nhân dân…” Rõ ràng
đó là chân lý không thể phủ nhận, không có Dân, không có Nước, không có Tổ quốc
thì không có một cái đảng thổ tả nào hiện diện được.
Tuồng như đã rõ, chúng ta 85 triệu đồng bào trong đó có các
vị tướng tá thức thời ấy như chung một chiến hào không chấp nhận thân phận của
lớp người bị trị để cho vài chục kẻ mạo danh khoác áo là “đầy tớ nhân dân” để
cai trị.
Đất nước không của riêng ai, chúng ta “cần phải biết” và có
quyền phải biết tất cả những gì liên quan đến sự thịnh vượng, tồn vong của quốc
gia dân tộc của chính mình và con cháu chúng ta mai sau, chúng ta không cho
phép bất cứ ai núp bóng sau lưng chúng ta “mãi quốc cầu vinh” cho đảng phái phe
nhóm cá nhân con cháu bầy đàn họ.
Hoàng
Thanh Trúc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét