Nguyễn Quang Duy
8-8-2014
Ngành giáo dục Việt Nam hiện nay đã trải qua ba lần cải
cách, nhưng vì vẫn điều hành lối cũ nên càng cải cách càng rơi vào khủng
hoảng. Từ góc nhìn kinh tế muốn tạo cạnh tranh, tạo công bằng và hiệu
quả giáo dục cần được tư thục hóa và đây là điều Việt Nam đã làm qua
nhiều thời đại.
Nhà Nho dạy học
Tổ chức giáo dục thời xưa được học giả Đào Duy Anh ghi lại
trong quyển Việt Nam Văn Hóa Sử Cương như sau: “Ở mỗi huyện có quan Huấn đạo, mỗi phủ có quan Giáo thụ, dạy
Tứ Thư Ngũ Kinh cho học trò khá. Ở mỗi tỉnh có quan Đốc học dạy các sinh đồ cao
đẳng. Ở Kinh đô có trường Quốc tử giám. Các vị học quan kể trên đều ở dưới quyền
giám đốc của bộ Lễ hoặc bộ Học. Trong dân gian thì xưa nay việc học vẫn
hoàn toàn tự do. Thầy học thì có thầy khóa, thầy đồ, thầy tú dạy trẻ con,
cho đến bậc đại khoa không xuất chính, hay các quan trí sĩ, có người dạy đến
trăm nghìn học trò.”
Giáo dục có thể xem như là công việc của Nho gia hơn là của chính quyền. Trường học thì phần lớn là nhà riêng của thầy nho, hoặc ở chùa, đình, miễu hay nhà một người giàu có trong làng. Các thầy nho hoàn toàn độc lập với công quyền. Họ không được tài trợ và cũng không bị kiểm soát đôn đốc bởi bất cứ cơ quan nào.
Trường công và tư thời Pháp
Giáo dục thời Pháp nhằm đào tạo một số người biết tiếng
Pháp, biết Quốc Ngữ, có đôi chút hiểu biết để ra làm công chức, làm thông dịch
phục vụ cho người Pháp. Mục tiêu xa là đồng hóa người bản xứ biến họ thành những
người Pháp về phương diện văn hóa. Để thực hiện các mục tiêu nêu trên, người Pháp đã mở rộng hệ
thống giáo dục công lập rộng khắp Đông Dương. Đồng thời từ mục tiêu truyền giáo
một số trường tư do giáo hội Thiên Chúa Giáo cũng đã xây dựng và điều hành.
Sau năm 1930 một số tư thục do tư nhân mở ra ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn và ở một vài tỉnh lỵ lớn đa số là các trường bậc Tiểu Học. Bậc Cao Đẳng Tiểu Học chỉ có ở Hà nội, Huế và Sài gòn. Bậc Tú Tài chỉ có ở Hà Nội và Sài Gòn.
Nhà nho vẫn được tiếp tục vai trò giáo dục. Nhưng theo quyết
định của Toàn Quyền Paul Beau năm 1906-07 thì các thầy đồ, thầy khóa ở xã thôn,
các quan giáo huấn, đốc học ở phủ, huyện, tỉnh, ngoài việc dạy chữ Hán phải dạy
thêm chữ Quốc Ngữ.
Khi Đông Kinh Nghĩa Thục được thành lập, người Pháp đã không
ngăn cấm hoạt động. Người Pháp chỉ giải tán khi biết được đằng sau Nghĩa Thục
là phong trào chống lại thực dân.
Tư thục ở Miền Nam
Giáo dục miền Nam nhằm đào tạo những công dân tốt có khả
năng phụng sự xã hội. Vì vậy vai trò của chính phủ là làm sao tạo được sự công
bằng và hiệu quả trong việc đầu tư cho giáo dục.
Chiến lược giáo dục miền Nam đựơc nêu rõ trong Hiến Pháp Việt
Nam Cộng Hòa:
(1) Quốc Gia công nhận quyền tự do giáo dục,
(2) nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí,
(3) nền giáo dục Đại Học được tự trị,
(4) những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn và giáo dục, và
(5) một ngân sách thích đáng phải được dành cho việc phát triển văn hóa giáo dục.
(1) Quốc Gia công nhận quyền tự do giáo dục,
(2) nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí,
(3) nền giáo dục Đại Học được tự trị,
(4) những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn và giáo dục, và
(5) một ngân sách thích đáng phải được dành cho việc phát triển văn hóa giáo dục.
Để thực hiện những mục tiêu trên chính phủ miền Nam đã chia
sẻ trách nhiệm với các thành phần khác trong xã hội. Những con số dưới đây có
thể nói lên được phần nào sự phát triển của hệ thống tư thục trước đây.
Năm 1964 có chừng 435 ngàn học sinh tiểu học chiếm 28 phần
trăm tổng số học sinh tiểu học đã được giáo dục tại các trường tư thục. Đến năm
1970 con số tăng lên 452 ngàn nhưng tỉ lệ đã giảm xuống chỉ còn 18 phần trăm.
Ở bậc trung học cả tỉ lệ lẫn số lượng học sinh đều liên tục
gia tăng. Nếu năm 1964 các trường tư thục thu nhận 181 ngàn học sinh hay 62 phần
trăm tổng số học sinh, thì đến năm 1970 con số tăng gần ba lần lên đến 484 ngàn
học sinh chiếm tỉ lệ 78 phần trăm tổng số học sinh trung học.
Về giáo dục đại học, sáu viện đại học tư thục cũng đã được
thành lập với chừng 40 ngàn sinh viên tốt nghiệp.
Công lập miễn phí
Nhận thức giáo dục cơ bản mang lại công ích xã hội cao nhất
nên chính quyền miền Nam đã tập trung ngân sách quốc gia cho giáo dục tiểu học. Học
sinh công lập được hòan tòan miễn phí. Ở bậc tiểu học học sinh còn được ăn bánh
mì và uống sữa miễn phí. Sách giáo khoa bậc tiểu học cũng được phát không. Các trường tư nhờ cạnh tranh nên học phí thấp và phẩm chất
giáo dục cũng không mấy chênh lệch. Bởi thế đa số trẻ em miền Nam đều được đến
trường ăn học.
Nhờ chia sẻ trách nhiệm với tư nhân, phía chính phủ đã chu cấp
một đời sống căn bản cho giáo chức và các công chức trong ngành giáo dục. Nhờ
đó miền Nam đã xây dựng được một nền giáo dục có giá trị ngang tầm quốc tế.
Đến năm 1975, hằng ngàn trường tư thục và các viện đại học
đã bị tịch thu và nhập vào hệ thống giáo dục theo mô hình Xô Viết. Hệ thống này đến nay cũng không mấy thay đổi, vẫn độc quyền
và chính trị hóa giáo dục.
Công biến thành tư
Ngân sách cho giáo dục hiện nay đã lên đến 20 phần trăm tổng
ngân sách quốc gia. Nhưng vì phải trải rộng cho tòan ngành, thiếu cạnh tranh và
hiệu quả, nên các cơ sở học đường đều nghèo nàn, xuống cấp, lương giáo viên
không đủ sống, có địa phương thiếu lương trả giáo viên. Đó là chưa kể đến tình trạng tham nhũng tràn lan khắp
ngành giáo dục. Các trường công lập cũng thâu học phí và nhiều khỏan phí
khác gây không ít khó khăn cho phụ huynh học sinh.
Trường công đã trở thành trường tư.
Một vài trường tư được thành lập nhưng vì thiếu môi trường cạnh tranh lành mạnh, thiếu học sinh, nên học phí quá cao. Gia đình trung lưu cũng không đủ khả năng cho con em theo học.
Theo thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định số
49/2010/NĐ-CP, kể từ ngày 15/7/2014 các học sinh tiểu học công lập sẽ không phải
đóng học phí.
Thông tư không nói các lệ phí khác có được miễn hay không?
Không thu được học phí, ngân sách lấy gì bù đắp và thực tế sẽ ra sao?
Cần tư thục hóa
Các sinh viên đại học sau vài năm theo học sẽ có công ăn việc
làm. Họ sẽ có lợi tức và có khả năng hòan trả các chi phí giáo dục. Người có
giáo dục đại học lại thường dễ thay đổi nghề nghiệp và có nhiều khả năng xuất
ngọai.
Vì thế một nước chậm phát triển như Việt Nam thay vì đầu tư
cho giáo dục đại học nên để các khỏan ngân sách cho việc đầu tư vào giáo dục bậc
tiểu học.
Cuộc hội thảo về cải cách giáo dục Đại Học do Nhóm đối thoại
giáo dục và Lãnh sự quán Hoa Kỳ vừa tổ chức cho thấy việc tự trị đại học được
xem như là giải pháp để thúc đẩy việc cải cách giáo dục đại học Việt Nam. Có điều các diễn giả không nói rõ tự do chính trị và tự do
giáo dục chính là căn bản của một nền đại học tự trị.
Quyền tự trị đại học đã được nêu rõ trong Hiến Pháp Việt Nam
Cộng Hòa. Miền Nam không có Bộ Đại Học. Bộ Giáo dục chỉ có một thứ trưởng đặc trách giáo dục đại học,
công việc của vị này chủ yếu là lo thực thi những chính sách và ngân sách giáo
dục đại học.
Đại học được tự trị về học vụ, tài chính và điều hành.
Các hội đồng ở cấp viện đại học và cấp trường đại học (hay
phân khoa) có quyền thảo luận và quyết định mà không phải trình báo hay xin chỉ
thị từ bất cứ ai. Các Khoa trưởng không do Bộ Giáo dục bổ nhiệm mà do các giáo
sư của Hội đồng Khoa bầu lên.
Khi Đại Học chưa được quyền tự trị thì khó có sự cạnh tranh
công bằng giữa đại học công và tư. Một bên đã có nhà nước bảo hộ phía bên kia cần
lợi nhuận để tiếp tục duy trì và phát triển. Thiếu cạnh tranh thì khó có thể
nâng cao được phẩm chất của nền giáo dục.
Cũng trong thời gian qua, tranh chấp diễn ra tại Đại học tư
thục Hoa Sen xoay quanh việc ai quyết định chiến lược và thành quả của chiến lược
thuộc về ai? Cuộc tranh chấp nhằm chọn giữa hai phương cách quản lý đại học: vụ
lợi hay phi vụ lợi.
Tổ chức vô vụ lợi (phi lợi nhuận) họat động không vì lợi nhuận
nhưng về lâu dài việc quản lý cũng cần có thặng dư để tái đầu tư và phát triển.
Khuyến khích đầu tư
Ở các nước Tây Phương các tổ chức vô vụ lợi hoạt động trong
ngành giáo dục được khuyến khích bằng cách miễn thuế lợi tức. Các cá nhân hay công ty đóng góp cho các tổ chức giáo dục vô
vụ lợi cũng được khai giảm thuế lợi tức hằng năm.
Để khuyến khích phát triển giáo dục tư thục, ngoài việc
chính phủ cấp học bổng hay ngân sách cho đại học cả tư lẫn công, có quốc gia
còn cho các sinh viên vay tiền học phí và chỉ hòan trả lại khi họ đã có công ăn
việc làm vững chắc.
Nhiều quốc gia miễn thuế cho các dịch vụ thuộc về giáo dục.
Có quốc gia còn khấu trừ thuế lợi tức các chi tiêu cá nhân hay công ty đầu tư
cho việc giáo dục và đào tạo.
Chính phủ cũng cần tạo mọi cơ hội để các trường đại học tư
thục được sự giúp đỡ của chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế, các công ty
liên quốc, các cộng đồng hải ngọai và các mạnh thường quân quan tâm đến giáo dục.
Úc coi giáo dục là hàng xuất khẩu
Dựa trên căn bản chiến lược, chính sách và luật pháp quốc
gia, các trường đại học tư thục có toàn quyền quyết định giữa tổ chức quản lý
đại học bằng cách vụ lợi hay vô vụ lợi. Các trường tiểu học và trung học tư thục, việc điều tài
chính và quản lý tùy thuộc vào Ban Quản Trị nhà trường. Bộ Giáo Dục chỉ quy định
chương trình và giám sát phẩm chất giáo dục các trường.
Ngày nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đã tư thục hóa nền
giáo dục của họ. Nhiều nước như Úc còn xem giáo dục như mặt hàng xuất khẩu chiến
lược.
Trong khi ấy nền giáo dục Việt Nam vẫn lệ thuộc vào tư tưởng
giáo dục Liên Xô trước đây, khi tự do chính trị và tự do giáo dục chưa có, mọi
cải cách đều không mang lại kết quả, nền giáo dục càng ngày càng suy thóai, dẫn
đến khủng hoảng xã hội.
Năm 1945, chỉ trong vòng vài tháng chính phủ Trần Trọng Kim
đã hoàn thành cuộc cách mạng giáo dục lần thứ nhất chuyển chương trình giáo dục
từ Pháp ngữ sang Việt ngữ. Xây dựng giáo dục trên ba nguyên tắc: dân chủ, dân tộc,
khoa học và lấy lý tưởng phụng sự quốc gia làm tôn chỉ.
Giáo dục gắn liền với phát triển quốc gia, bởi thế muốn đưa
đất nước đi lên chúng ta cần sửa sọan tư tưởng sẵn sàng lấy việc tư thục hóa
làm nền tảng cho cuộc cách mạng giáo dục lần này như các thế hệ trước đã
làm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét