20-6-2014
Gần đây tôi tình cờ đọc “Thoát Trung luận” của Tiến sĩ Giáp
Văn Dương. Tôi khá ngạc nhiên với lời khẳng định “Lịch sử nước ta có thể
được diễn giải tương đối đầy đủ dưới góc nhìn thoát Trung”.
Nếu khẳng định này
đúng, thì hệ lụy của các “giá trị Á Đông” Khổng Nho không đến nỗi sâu sắc đến độ
trở thành não trạng của người dân Việt Nam và nặng nề đến nỗi gây cản trở quá
trính tiến về phía thế giới tự do của chúng ta hôm nay. Nói vậy không phải để
thất vọng mà để nhận thức được rằng người Việt chúng ta phải nỗ lực một cách
thành thật, kiên trì và thậm chí là đau đớn để thực sự “thoát Trung”.
“Thoát Trung” giả hiệu hay “tự Hán hóa”
Từ sau một ngàn năm Bắc thuộc, các chế độ quân chủ “nội địa”
được thành lập và nối tiếp nhau cai trị đất nước theo mô hình phương Bắc từ
chế độ khoa cử đến hệ thống quan. Quả thật, việc áp đặt tư tưởng ngoại lai bởi những
kẻ xâm lược luôn khó khăn và gặp phải nhiều kháng cự hơn là bởi chính những
“ông vua nước Nam” đầy tính chính đáng và có cả lực lượng quan lại đông đảo cai
quản đến các vùng xa xôi nhất của đất nước.
Sự kiện toàn bộ máy quân chủ tập quyền ở Việt Nam song hành
cùng với sự thể chế hóa tư tưởng và văn hóa Khổng Nho. Năm 1070, đời Lý Thánh
Tông, Văn miếu Quốc tử Giám được xây dựng, là nơi thờ các vị “Thánh hiền” và là
trường đào tạo các trí thức Nho học để chuẩn bị nhân sự cho hệ thống quan lại.
Thời Trần Thái Tông, Quốc Tử Giám này còn có điện thờ Chu Cơ Đán – khai quốc
công thần của nhà Chu bên Trung Hoa xa xôi. Thời nhà Nguyễn, quần thể kiến trúc
này còn được xây bổ sung thêm nơi thờ cha mẹ Khổng Tử, không những không liên hệ
gì với dân nước Nam, mà còn là những nhân vật không mấy đáng lưu tâm.
Dù tôn giáo của các vị quân chủ Việt Nam là gì, não trạng và
chính sách cai trị của họ đều mang bản chất Khổng Nho. Sự phụ thuộc về ý thức hệ
của các triều đại quân chủ Việt Nam, về mức độ tuy có khác, nhưng về bản chất
không khác cái cách mà nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã áp đặt chủ nghĩa cộng
sản ngoại lai, theo mô hình Nga Xô rồi đến Trung Cộng, lên đất nước này. Các
triều đại quân chủ Trung Hoa có thể năm lần bảy lượt xâm chiếm Việt Nam và các
triều đại Việt Nam dù phải triều cống Trung Hoa để bày tỏ sự khiêm nhường và hiếu
hòa của một quốc gia nhược tiểu. Nhưng họ không có áp lực đòi nhà nước quân chủ
nước Nam phải bắt chước mô hình chính trị của họ, bắt trí thức khoa bảng nước
Nam phải học tập tư tưởng Khổng Nho và người dân nước Nam phải thực hành tập
quán luân lý và nghi lễ theo cách của người Hán. Thiết nghĩ, đây là một sự tự
nguyện hoàn toàn sự lựa chọn của tầng lớp cai trị và thức giả ngày xưa đã
trở thành di sản nặng nề của chúng ta hôm nay.
Tiến sĩ Dương còn nói thêm: “Việc toàn dân đồng loạt chuyển
sang sử dụng chữ quốc ngữ, là minh chứng rõ ràng cho sự vùng thoát khỏi vòng kiềm
tỏa này”. Thiễn nghĩ, việc chuyển sang sử dung chữ Quốc ngữ do các nhà truyền
giáo phương Tây sáng tạo nên không hẳn là minh chứng cho tinh thần “thoát
Trung” như cách lý giải gượng ép của tiến sĩ Dương; mà chỉ là một sự thuận tiện
vì chữ quốc ngữ dễ học hơn và sẽ giúp cho những người thông thạo nó tiến nhanh
đến các vị trí công quyền của chế độ thực dân Pháp hoặc đó là cách tốt để tiếp
cận kho học thuật phương Tây. Ý thức thoát Trung nếu đã bùng phát mạnh mẽ từ thời
đó thì Việt Nam đã không có diện mạo tri thức và văn hóa như hôm nay. Cay đắng
thay một quá trình “tự Hán hóa” (theo cách gọi của kinh tế gia Nguyễn Xuân
Nghĩa)!
Thoát khỏi tư tưởng Trung Hoa
Cuộc “thoát Trung” về chính trị, kinh tế có thể được thực hiện
bằng chiến tranh (nếu Việt Nam có đủ sức?) hoặc bằng một sự thay đổi thể chế, khi
một chính quyền bài Hoa, hoặc thân phương Tây được thành lập. Nhưng cuộc “thoát
Trung” về tư tưởng thì khó khăn và dày vò hơn nhiều. “Thoát Trung” này cũng đồng
nghĩa với sự “phương Tây hóa”, nghĩa là sự chắt lọc các giá trị công bằng – đa
nguyên - tự do - dân chủ - nhân quyền. Cuộc “Thoát Trung” ngoạn mục và xứng
đáng trong thời điểm hiện nay không phải là những cổ xúy cho chủ nghĩa dân tộc
mà là sự “tự thắng” trong não trạng của giới trí thức Việt Nam, đặc biệt là giới
trí đấu tranh đòi dân chủ đa nguyên. Vậy thì may ra cuộc “thoát Trung” của
chúng ta mới bền vững và kể từ đó, lịch sử Việt Nam sẽ chuyển hướng mãi mãi khỏi
ảnh hưởng của Trung Hoa đến độ chúng ta có thể làm bạn với họ trong hòa bình và
tôn trọng mà không mảy may lo sợ sự gần gũi này trở thành sự phụ thuộc.
Chế độ độc tài hiện nay không liên quan gì đến Khổng Nho,
nhưng ít nhất, sự tồn tại dai dẳng của nó có sự trợ lực của những mầm mống Khổng
nho còn bám sâu trong văn hóa người Việt - não trạng thèm khát nhưng vô
cùng sợ hãi quyền lực. Thật vậy, ngay cả khi tính chính đáng của chế độ này bị
thách thức liên tục qua những biến động của thế giới, qua thành tích Nhân quyền
tồi tệ, qua thất bại trong việc đối phó với nguy cơ xâm lăng của chính quyền…
người dân vẫn không ý thức được mình có quyền tước đi quyền lực từ tay tập đoàn
cai trị. Và đáng thất vọng hơn là cách thể hiện của trí thức Việt Nam.
Sự khúm núm trước mọi thứ quyền lực, đặc biệt là quyền lực
chính trị khẳng định cái tàn tích dai dẳng của các “giá trị Á Đông”, mà chính
xác hơn là tinh thần Khổng Nho còn sót lại ở vài quốc gia như Trung Quốc và Việt
Nam. Xu hướng cậy dựa quyền lực, thỏ thẻ van xin mà không dám đối mặt thẳng thắn
với (chứ chưa nói là thách thức) kẻ cầm quyền cũng là một đặc trưng không thể lẫn
lộn của phong cách “kẻ sĩ”. Tư tưởng Không Nho là của Trung Quốc, mô hình
cộng sản biến thái “kinh tế thị trường định hướng XHCN” cũng là của Trung Quốc.
Vậy thử hỏi khi hai gọng kềm này vẫn còn kẹp chặt xã hội Việt Nam thì chúng ta
làm sao để “thoát Trung”? Mọi cố gắng “thoát Trung” chỉ là sự vùng vẫy vô vọng
của con cóc bị bỏ vào cái lồng rồi quăng xuống ao cứ cố tìm cách thoát khỏi cái
ao mà không biết mình không thể làm gì được khi còn ở trong lồng. (Đây cách ẩn
dụ từ một thân hữu của người viết). Vậy nên, đoạn tuyệt mối liên hệ về tư tưởng
(cả tư tưởng "truyền thống" và tư tưởng cộng sản hiện đại) mới chính
là cuộc thoát Trung thực chất nhất và cũng cần thiết nhất.
“Thoát Trung” hay “thoát Cộng”
Có lẽ do đã tuyệt vọng với việc giành lại quyền lực từ tay
thiểu số độc tài đảng trị, người dân Việt Nam và nhất là trí thức cố gắng bù đắp
vào khoảng trống bi đát trong cái tôi không được thỏa mãn của mình bằng cách
chuyển hóa những bức xúc mãnh liệt bị đè nén thành những các biểu hiện mang đầy
màu sắc chủ nghĩa dân tộc. Và có lẽ như thế người ta tìm thấy được vai trò cho
sự tồn tại của mình. Nhà nước độc tài Việt Nam hiểu rõ tâm lý đó. Họ đè bẹp mọi
khát khao tranh giành quyền lực chính trị của người dân, nhưng chân thành cổ vũ
cho thứ chủ nghĩa dân tộc kém tỉnh táo (theo cách gọi của bác sĩ Phạm Hồng
Sơn). Họ còn nhiệt tình thúc đẩy cho sự chuyển hướng này. Nhưng một cách
thông minh, họ chỉ giữ cho những xúc cảm đó ở mức độ đủ để làm nhòa đi thực trạng
độc tài và vi phạm Nhân quyền, chứ không đến nỗi làm mất lòng người đàn anh và
vượt ngoài sự kiểm soát của họ. Sự tràn ngập các thông tin về biển đảo trên
truyền thông Nhà nước và Hội thảo “thoát Trung” trong thời gian qua là một minh
họa cho những lời tôi vừa khẳng định.
Chính quyền độc tại hiện nay cho thấy họ đã kiên định lập
trường “16 chữ vàng”. Mấy chục năm nay họ đã thành công trong việc "Hán
hóa" chính họ và cả người dân Việt Nam một cách toàn diện bằng các chính
sách chư hầu của mình. Nhưng dù cho họ có muốn tập hợp người dân để đoàn kết
“thoát Trung”, thì cũng thật ngớ ngẩn nếu chúng ta lại thêm một lần nữa tái diễn
sai lầm trong lịch sử bằng cách xếp hàng sau lưng họ. Tại sao phải tập hợp dưới
ngọn cờ đảng cộng sản (hay bất cứ đảng nào khác) để thoát Trung? Nhiều người sẽ
cho rằng cần sự đoàn kết để chống ngoại xâm. Bây giờ là thời đại nào rồi? Chiến
tranh bằng vũ khí có tính sát thương cao, nếu không muốn nói là vũ khí nguyên tử
đã vô hiệu hóa triệt để sức người. Nếu không có sức mạnh quân sự thì mọi sự
đoàn kết đều không đáng nói đến. Vấn đề của Việt Nam bây giờ không phải là chiến
tranh và tập hợp dưới ngọn cờ của phe phái nào để chống Trung Quốc; mà là phải
dân chủ hóa để từ đó thay đổi chính sách đối nội, đối ngoại, để vẫn giữ vững chủ
quyền quốc gia mà không leo thang một cuộc chiến tranh có nguy cơ hủy diệt đất
nước.
Trong tình thế quốc gia lâm nguy, với nhiều cảm xúc hơn lý
trí, sự đoàn kết theo tinh thần quốc gia dưới ngọn cờ quyền lực trung ương có lẽ
là ưu tiên đối với nhiều thức giả Việt Nam. Trong mắt các vị ấy, một chế độ độc
tài có vẻ tốt đẹp hơn, hoặc ít nhất là có thể chấp nhận được, nhờ lớp trang điểm
chống xâm lược. Quả thật, nếu bộ sậu cầm quyền Việt Nam không lún quá sâu vào hồ
sơ bán nước như hiện nay, nếu có một nhóm lãnh đạo nào trong Đảng cộng sản
rút chân được khỏi vũng lầy bán nước để nhảy ra mà vỗ ngực cầm lấy ngọn cờ
chính nghĩa chống ngoại xâm, có lẽ lịch sử sẽ lặp lại, Việt Nam sẽ không sao
thoát nổi kịch bản 1945. Nói như thế để thấy rõ cái tâm thế của “Dân gần trăm
triệu ai người lớn. Nước bốn ngàn năm vẫn trẻ con”.
Đất nước và người dân chờ đợi những kiến giải hữu ích từ giới
trí thức Việt Nam khắp thế giới. Hoặc là chúng ta lại để cho thời thế đưa đẩy
và chỉ việc nhắm mắt đưa chân?
Nguồn: Thông Luân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét