Masashi Nishihara , Kyoto University, Japan
7-4-2014
Đọc tất cả các phần đoạn:
CUỘC CHIẾN TRANH TRUNG – VIỆT NĂM 1979: MỚI CHỈ LÀ HIỆP THỨ NHẤT ?
Đọc tất cả các phần đoạn:
CUỘC CHIẾN TRANH TRUNG – VIỆT NĂM 1979: MỚI CHỈ LÀ HIỆP THỨ NHẤT ?
Giáo Sư Masashi Nishihara, tác giả bài nghiên cứu dưới đây,
từ nhiều thập niên qua đã được xem là chuyên viên hàng đầu về các vấn đề quốc
phòng của Nhật Bản. Bài viết này được đăng tải trong tập tổng kết tình
hình Đông Nam Á thường niên, Southeast Asian Affairs 1980, của Học Viện
Institute of Southeast Asian Studies, Singapore, đã đưa ra một cái nhìn rất sớm
về cuộc chiến tranh biên giới Việt - Trung 1979 từ một nhà nghiên cứu Nhật Bản.
Không giống với các nhà
nghiên cứu Tây Phương khác, tác giả đã có một cái nhìn sâu sắc hơn về mặt lịch
sử Á Châu, khi cho rằng “bản chất bên dưới của sự rạn nứt nằm ở sự thù hận
lịch sử giữa hai dân tộc, hay sự tức giận của Trung Quốc trước sự thách thức của
một nuớc yếu hơn trong lịch sử đối với khu vực ảnh hưởng truyền thống của chính
Trung Quốc”. Quan điểm này đã được triển khai một cách chi tiết hơn bởi một
tác giả Hàn Quốc, Yu Insun, 31 năm sau này, khi phân tích cuộc chiến từ quan điểm
lịch sử bang giao giữa hai nước Việt-Trung, mà bản dịch sẽ được Gió O đăng tải
nơi đây.
Thực tế cho thấy sự kiện chiên tranh biên giới Việt - Trung
là chính là một trong hai bước khởi đầu cho cuộc chiến tranh lâu dài hơn, mà ở
một số khía cạnh vẫn còn tiếp diễn đến ngày nay, được các học giả thế giới đặt
tên là Cuộc Chiến Tranh Đông Dương Thứ Ba. Một trong những bài nghiên cứu
về cuộc chiến tranh biên giới kéo dài từ 1980 đến 1987 với sáu cuộc đụng độ lớn
lao đã được giáo sư Carlyle Thayer công bố hồi năm 1987, mà bản dịch cũng sẽ sớm
được đăng tải nơi đây.
***
Cuộc chiến tranh
mười bảy ngày của Trung Quốc với Việt Nam đã khởi sự hôm 17 Tháng Hai 1979 khi
các binh sĩ “tuần tra biên giới” Trung Quốc phát động điều họ gọi là “tự vệ
hoàn kích” đánh vào nước láng giềng phương nam của họ. Sau khi phá hủy
vài tỉnh lỵ và cuối cùng giành được sự kiểm soát tỉnh lỵ chiến lược của Lạng
Sơn hôm 5 Tháng Ba, Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc (QĐGPNDTQ) bắt đầu
rút quân, loan báo rằng họ đã đạt được các mục đích của họ. Hà Nội đã chấp
nhận đề nghị của Trung Quốc để tổ chức các cuộc đàm phán biên giới với điều kiện
QĐGPNTQ trước tiên phải triệt thoái tất cả các binh sĩ của họ. Tuyệt
nhiên không phải là binh sĩ Việt Nam đã đánh đuổi các lực lượng địch ra khỏi nước.
Bài xã luận trong tờ Nhân Dân Nhật Báo [Trung Quốc] hôm 7 Tháng Ba đã
bình luận với sự thỏa mãn về “sự chiến thắng hoàn toàn” của Trung Quốc, nhưng
ngay sau khi Trung Quốc tuyên bố hôm 17 Tháng Ba rằng tất cả các binh sĩ của nó
đã được rút về, Bộ Quốc Phòng Việt Nam đã đưa ra phiên bản của riêng mình về kết
quả. Dân chúng ở Hà Nội đã tổ chức một “cuộc tập hợp mừng chiến thắng” khổng
lồ hôm 20 Tháng Ba.
Nhiều phần chắc hẳn như
thế. Nhưng bên nào đã thực sự chiến thắng? Bao nhiêu binh sĩ đã
tham dự vào cuộc xung đột? Mỗi bên đã khởi sự chuẩn bị để giao chiến khi
nào? Các chính phủ Sô Viết và Mỹ đã can dự đến mức độ nào vào cuộc chiến?
Nguyên do chính xác là gì, và sẽ có các cuộc chiến tranh khác theo sau hay
không? Không có các câu trả lời rõ ràng, duy nhất cho bất kỳ một trong các câu
hỏi quan trọng này. Giống như nhiều cuộc chiến tranh khác, sự đổ vỡ bạo động
giữa Bắc Kinh và Hà Nội đã nêu lên nhiều câu hỏi hơn là cung cấp các câu trả lời.
Ở giai đoạn này, người ta chỉ có thể cố gắng chắp nối các thông tin rời rạc
thành các sự giải thích có vẻ hợp lý.
Các Nguyên Do
Trong số các
nguyên do trực tiếp đã xô đẩy chiến tranh là vài biến cố biên giới, cuộc di cư
của người Hoa (Hoa Kiều hải ngoại) khỏi Việt Nam, sự ký kết bản Hiệp Ước Hữu
Nghị và Hợp Tác giữa Sô Viết và Việt Nam, và sự lật đổ của Việt Nam chế độ Pol
Pot thân Bắc Kinh. Các nguyên do này giờ đây là các biến cố quen thuộc,
nhưng nguyên do cơ bản cho cuộc chiến tranh lại nằm ở nơi khác. Căn
nguyên sâu xa hơn của cuộc xung đột là sự thách đố mà các nhà lãnh đạo Việt Nam
quá tự tin đã đặt ra đối với khu vực ảnh hưởng truyền thống của Trung Quốc --
Đông Nam Á – một thách đố được nêu ra đối với Trung Quốc ngay trước khi có sự sụp
đổ của Sàigòn hồi năm 1975.
Trong cuộc chiến tranh
kéo dài với Hoa Kỳ, giới lãnh đạo Hà Nội đã khai thác sự xung đột Nga-Hoa để
bòn rút sự viện trợ đáng kể từ cả hai phía. Họ đã không chấp thuận sự đón
tiếp bởi cả Bắc Kinh lẫn Moscow dành cho các cuộc thăm viếng của Tổng Thống Mỹ
Richard Nixon trong năm 1972, nhưng đã kết án Bắc Kinh một cách nghiêm khắc hơn
khi họ bắt đầu hiểu được rằng việc gia tăng xung khắc với Liên Bang Sô Viết
(LBSV) sẽ chỉ làm lợi hơn cho phía Trung Quốc, bởi quyền lực Mỹ vẫn còn hiện diện
Đông Nam Á và Việt Nam vẫn còn bị chia cắt. Các nhà lãnh đạo Hà Nội đã ký
kết hiệp định hòa bình Paris hồi Tháng Một 1973 ngày càng tin tưởng hơn về sự
chiến thắng sau cùng của họ đối với Sàigòn và Hoa Thịnh Đốn. Điều này đã
là một sự thách đố chống lại quyền lực của Trung Quốc. Vào lúc đó, Hà Nội
đã sẵn thiết lập một sự hiện diện quân sự vững chắc tại Lào và một khu vực ảnh
hưởng trên miền đông Kampuchea, sự kiện mà trong trường hợp của Kampuchea, đã
trở thành một nguồn cội của sự xích mích giữa phe Khmer Đỏ thân Trung Quốc và
Việt Nam. Ngay cả trước khi có sự sụp đổ của Sàigòn, các rắc rối biên giới
của Hà Nội với Trung Quốc đã khởi sự. Sau đó trong năm 1976, Hà Nội đã
thay đổi lập trường của nó về các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, tuyên xác các
chủ quyền lãnh thổ ở đó. Trong Tháng Ba cùng năm, Việt Nam nhận được một
tàu ngầm từ Liên Bang Sô Viết, được tường thuật là được đóng tại các cơ sở tàu
ngầm ngoài khơi Hải Phòng và, cùng với Ba Lan, huấn luyên thủy thủ đoàn Việt
Nam khoảng 80 người ở hải ngoại.
Các đại biểu của Trung
Quốc đã vắng mặt trong Đại Hội Kỳ Thứ Tư của Đảng Lao Động Việt Nam (giờ đây được
biết là Đảng Cộng Sản Việt Nam) hồi Tháng Mười Hai 1976. Nhưng điều đó gần
như được chờ đợi, bởi kể từ 1966, Trung Quốc đã không gửi các phái đoàn đại diện
đến các kỳ họp Đảng Cộng Sản nước ngoài. Ngoài ra, trong một cuộc thăm viếng
hồi Tháng Mười 1975 tại Moscow, Lê Duẩn và phái đoàn của ông đã ủng hộ các lập
trường ý thức hệ của LBSV trên chính sách hòa hoãn của Sô Viết, chính sách tăng
cường vũ khí, và về Hội Nghị An Ninh và Hợp Tác tại Âu Châu (Conference on
Security and Cooperation in Europe: CSCE). Trong kỳ Đại Hội năm 1976,
Mikhail Suslov, một ủy viên thế lực của Bộ Chính Trị, đã đến dự, có lẽ với mục
đích hướng dẫn và củng cố lập trường thân Moscow của Hà Nội. Như thế
không có gì đáng ngạc nhiên rằng Đại Hội năm 1976 rõ ràng đã sắp xếp sân khấu
cho sự rạn nứt Trung-Việt sau đó.
Hàng loạt đáng kể các
nhà lãnh đạo Việt Nam đã lên đường sang Moscvow trong năm 1977, trong số đó có
Võ Nguyên Giáp (Bộ Trưởng Quốc Phòng, trong Tháng Ba), Phạm Văn Đồng (Thủ Tướng,
trong Tháng Tư), Lê Thanh Nghị (Phó Thủ Tướng, Chủ Tịch Ủy Ban Kế Hoạch Nhà Nước,
trong Tháng Sáu), Trường Chinh (Chủ Tịch Ban Thường Vụ Quốc Hội, trong Tháng
Tám), Lê Duẩn (Tổng Bí Thư Đảng, trong Tháng Mười), và các nhân vật khác.
Tất cả các nhân vật này sau đó cũng đều có thăm viếng Bắc Kinh, nhưng sự
nghiêng về phía Moscow của họ đã không bị che dấu. Ông Giáp tượng trung
cho một trường hợp điển hình. Trong cuộc thăm viếng hồi Tháng Ba của ông,
đối tác phía Nga của ông ta, Dmitri Ustinov, đã hứa hẹn viện trợ để “tăng cường
năng lực chiến đấu của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam”, nhưng cuộc thăm viếng hồi
Tháng Sáu của ông tại Bắc Kinh đã rút ra được một lời tuyên bố ít cụ thể hơn
nhiều: “Trung Quốc sẽ làm hết sức mình để phát triển và tăng cường sự liên đới
và sự hợp tác anh em giữa hai nước. Đáng kể hơn, Lê Duẩn đã nói một cách
khiêu khích với các nhà lãnh đạo Bắc Kinh trong Tháng Mười Một rằng Việt Nam
cám ơn Liên Bang Sô Viết về “sự ủng hộ vững chắc cùng viện trợ quý báu và khổng
lồ” của nó trong việc giải phóng miền nam – một nhận xét mà ông ta đã không đưa
ra trong cuộc thăm viếng hồi Tháng Chín 1975 tại Trung Quốc. Viên tổng bí
thư đảng đã trở về mà không đưa ra bản tuyên bố chung thông thường.
Từ năm 1977 trở đi, Bắc
Kinh đã gạt bỏ bất kỳ sự mơ hồ nào trong các lời tuyên bố công khai về các quan
điểm ý thức hệ thân Moscow của Hà Nội, sau này (sau Tháng Sáu 1978) gọi Việt
Nam theo đuổi “chủ trương tiểu bá quyền” hay “một Cuba tại Á Châu”, đã đứng vào
hàng ngũ “đại bá quyền” LBSV. Trong đầu năm 1978, Việt Nam bắt đầu nói đến
Trung Quốc như một “lực lượng phản động quóc tế đã bắt tay với chủ nghĩa đế quốc”
và, từ Tháng Sáu, là “kẻ thù chính” của Việt Nam. Sự thách đố ý thức hệ
cùng địa chính trị này từ Việt Nam, kẻ đã trở thành, trong mắt nhìn của Trung
Quốc, không gì khác hơn một nước thụ ủy của Liên Bang Sô Viết, đã cấu thành
nguyên do căn bản cho hàng loạt các biến cố sau đó cuối cùng dẫn dắt đến cuộc
xung đột vũ trang.
Nguồn: Gió O
(còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét