Đỗ Thành Công
9-6-2014
Riêng Khâm Ðịnh Việt Sử Thông Giám thì " Vào năm 1541, Mạc Ðăng Dung cùng
cháu là Mạc Văn Minh và bày tôi là bọn Nguyễn Như Quế hơn 40 người đã tự buộc
dây thừng vào cổ, đi chân đất qua cửa Nam Quan quỳ lạy, phủ phục trước quân
Minh, khúm núm dâng biểu xin hàng, nộp trình sổ sách đất đai cho quân Tàu để
mong nắm giữ được vương quyền và thủ lợi riêng tư".
Vết nhơ đó, lịch sử phải ghi một lần nữa, nhưng lần này, tủi nhục và đau đớn
hơn cho giòng dõi Việt:
"Cuối thế kỷ thứ 20, Lê Khả Phiêu, Tổng Bí Thư đời
thứ 6 của đảng CSVN cùng bày tôi các cấp như Lê Công Phụng, Vũ Khoan....., vì sợ
hãi bị mất quyền lực, vì đặt quyền lợi Ðảng lên trên quyền lợi Dân Tộc và Ðất
Nước, đã cam tâm ký Hiệp Ðịnh Về Biên Giới với Trung Quốc. Hiệp Ðịnh này nhường
đứt hơn 720 cây số đường biên giới phía Bắc, nhường mất nhiều di tích lịch sử,
đất đai, làng mạc và cả dân cư Việt cho người Trung Quốc. Trong số di tích lịch
sử bị mất, có Ải Nam Quan. Ðây là nơi Nguyễn Trãi đã từ biệt cha Nguyễn Phi
Khanh, trở về phò Lê Lợi diệt Minh, nơi tướng nước Tàu Liễu Thăng đã bị quân
Nam phục binh chém rơi đầu, nơi Mạc Ðăng Dung từng lê lết trói mình, qùy lạy
xin dâng đất. Ải Nam Quan của Nước Nam đã chính thức xoá tên từ tháng 12 năm
1999."
Cho đến giờ dư luận trong và ngoài nước vẫn chưa tìm ra nguyên do sâu xa và bí ẩn
của việc bán một phần cơ đồ nước Việt cho Trung Quốc. Một số tin cho là có thể
Ðảng CSVN bị Trung Quốc lừa nên phải ký Hiệp Ðịnh, hoặc chi tiết hơn thì cáo
giác họ Lê đã bị trúng độc kế mỹ nhân nên phải ký nếu không muốn bị đốt cháy. Có tin là Trung Quốc hứa hẹn cho Việt Nam 2 tỷ dollars để đổi lấy các nhượng bộ
trên, hoặc CSVN phải bán đất để trả nợ Trung Quốc vì thiếu từ thời chiến tranh
chống Mỹ....
Những dư luận này cho đến nay vẫn không đủ tính thuyết phục và bằng
chứng để biện minh cho những nhượng bộ quá lớn từ phiá Hà Nội bắt đầu từ thời Tổng
bí thư Lê Khả Phiêu. CSVN trong thời kỳ chiến tranh, đã phải chịu lép mình dưới
Trung Quốc để được nhận viện trợ quân sư và kinh tế trị giá hàng tỷ dollars. Dù
vậy, họ đã không có những nhượng bộ trắng trợn đáng kể, ngoại trừ văn kiện của
Phạm Văn Ðồng công nhận tuyên bố của Trung Quốc về lãnh hải năm 1958. Thậm chí
sau đó, Ðảng CSVN đã có những thái độ e dè trước mưu đồ xâm lược của Trung Quốc.
Năm 1966, khi chiến tranh Việt Nam lên cao điểm, Trung Quốc đã gửi hơn
130,000.00 quân đóng dọc theo biên giới phía Bắc để yễm trợ Hà Nội. Dù vậy, Hà
Nội đã có những phản ứng khó hiểu làm Mao Trạch Ðông đã chỉ thị cho quân đội
Trung Quốc "hạn chế các sự yểm trợ quá nhiệt tình có thể gây ra hiểu lầm từ
phía Việt Nam".
Trong khi đang hết sức cần yểm trợ của Trung Quốc để răn đe Hoa Kỳ, thì tờ
Nghiên Cứu Lịch Sử ấn hành tại Hà Nội năm 1965 lại được Ðảng cho phép đăng tải
các bài ca ngợi cuộc chiến tranh giữ nước chống các triều đại xâm lăng Trung Quốc.
Khi Hoa Kỳ gia tăng chiến dịch bỏ bom tại Hà Nội, nhiều tàu chiến Trung Quốc đã
bị Hà Nội từ chối cho đậu ở các bến Cảng.
Ðiều này đã làm Ðặng Tiểu Bình bực
mình và đã hỏi thẳng Lê Duẩn khi Duẩn dừng lại Bắc Kinh hồi tháng 4 năm 1966
trong chuyến về khi tham dư Hội Nghị lần thứ 23 của đảng Cộng Sản Liên Xô.
"Các đồng chí nghi ngờ nhiệt tình của chính phủ Trung Quốc hay sao? Tôi
xin thưa với đồng chí là phía Trung Quốc không muốn kiểm soát chính phủ Việt
Nam đâu.... Nếu chúng tôi có phạm một số nguyên tắc làm quý quốc nghi ngại thì
cũng chỉ vì đồng chí Mao Trạch Ðông đã có cái nhìn xa...".
Khi Hà Nội mở cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân hồi 1968 càng làm Mao Trạch Ðông
khó chịu hơn nữa vì nó đi ngược lại chiến lược chủ trương chiến tranh "hạn
chế" của Mao. Cuối năm 1969, Bắc Kinh đã tìm cách giảm thiểu viện trợ quân
sự cho Hà Nội một cách đáng kể, chỉ có 139 ngàn khẩu súng trường, 119 triệu
viên đạn, 1.36 triệu đạn đại bác cung cấp trong năm 1969 so với 219 ngàn khẩu
súng, 247 triệu viên đạn và 2 triệu đạn đại bác đã được viện trợ trong năm
1968. Tháng 2 năm 1968 Trung Cộng tiến hành việc xây dựng con đường từ Yunnan đến
Mường Sai thuộc phía Bắc Lào. Có hơn 20 ngàn người bao gồm công nhân, kỷ sư,
quân bảo vệ và trang thiết bị quân sự để thực hiện công tác này. Sự hiện diện của
quân Trung Quốc ở Bắc Lào đã tạo ra khó chịu từ phiá Hà Nội. Tháng 9 năm 1968,
dưới áp lực của Hà Nội, Tổng Bí Thư Lào Kaysone Phomvihane đã yêu cầu Trung Quốc
cho rút toàn bộ phái đoàn xây dựng này ra khỏi Lào. (Chen Jian - Involvement of
China in Vietnam War)
Tháng 12 năm 1973 thấy nhu cầu cần khai thác các mỏ dầu. Hà Nội thông báo với
Trung Quốc mong muốn mở các cuộc đàm phán để giải quyết các mâu thuẩn về đường
biển. Tháng 8 năm 1974, đại diện cấp Thứ Trưởng Ngoại Giao hai nước đã họp ở Bắc
Kinh. Cuộc thương thảo đi vào chổ bế tắc, phiá Việt Nam đòi phải chấp thuận
biên giới theo Hiệp Ðịnh 1887 của Nhà Thanh. Trung Quốc từ chối, viện lý là đường
ranh giới chia vùng biển thuộc vịnh Hải Nam chưa bao giờ hiện hữu trong hiệp
đinh 1887. Vì vậy nếu Trung Quốc đồng ý đề nghị của Hà Nội thì khác nào nhượng
bộ 2/3 vùng vịnh này cho phía Việt Nam. (Duiker, China and Viet Nam, pg 60-61)
Trong khi đó, thì dọc biên giới phía Bắc đã có những cuộc tranh chấp và đụng độ
quân sự từ năm 1973. Năm 1974, theo Hà Nội đã có trạm chán quân sự tại cây số
179 biên giới phía Bắc, theo Trung Quốc thì đây là khu vực thuộc cây số 121.
Tháng 3 năm 1975 Bắc Kinh yêu cầu mở cuộc đàm phán nhưng Hà Nội vì đang tiến
hành kế hoạch xâm chiến miến Nam nên đã đề nghị để các viên chức tại địa phương
giải quyết các xung đột trước. (Gilks, Breakdown of Sino-Vietnamese Alliance)
Tháng 9 năm 1975, Lê Duẩn chính thức thăm Bắc Kinh. Ðặng Tiểu Bình cho biết ông
rất bực bội với không khí bài Hoa của các cơ quan ngôn luận tại Việt Nam. Năm
1976, Bắc Kinh thông báo ngừng viện trợ đồng thời giãm chi viện kế hoạch tài trợ
1976-1980 xuống 300 triệu mỗi năm thay vì 600 triệu như đã cam kết. Tháng 10,
Lê Duẩn quay sang Liên Sô tìm đồng minh. Liên Sô đồng ý viện trợ 3 tỷ cho kế hoạch
ngũ niên đồng thời ký với Hà Nội hiệp ược yễm trợ quân sự hổ tương Nga - Việt
năm 1978. (Chanda, Brother Enemy, pg 28)
Tháng 2 năm 1979, chiến tranh Hoa - Việt bùng nổ. Họ Ðặng quyết định tấn công
qua biên giới phiá Bắc để dạy cho đảng CSVN một bài học. Quân Trung Quốc đã chiếm
giữ hơn 8 cây số đất thuộc tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn. Mặc dù chính thức tuyên bố
rút quân, và hai bên đã có những cuộc đàm phán về đường biên giới, Bắc Kinh vẫn
còn chiếm giữ một số đất thuộc lãnh thổ Việt Nam. Các khu vực bị Trung Quốc chiếm
này, theo Hiệp Ðịnh Về Biên Giới Phía Bắc ký hồi cuối năm 1999 coi như Hà Nội
chính thức chấp nhận bị mất, trong đó bao gồm một phần đất thuộc tỉnh Lạng Sơn,
và các khu vực có tính lịch sử như Thác Bản Giốc và Ải Nam Quan.
Câu hỏi đặt ra là tại sao đột nhiên tập đoàn lãnh đạo đảng CSVN lại chịu mất đi
phần biên giới phía Bắc một cách nhục nhã như vậy? Tại sao các đời Tổng Bí Thư
khác cũng ở thế yếu nhưng dám trái ý Thiên Triều, mà bắt đầu từ đời Tổng bí thư
Lê Khả Phiêu lại dâng đất, bán biển?. Tại sao ông Phiêu và lãnh đạo Ðảng các đời
sau này không biết Ải Nam Quan đã từng là di tích lịch sử? Tại sao lãnh đạo đảng
CSVN lại có thể đánh giá quá thấp lòng yêu nước và tự ái của dân tộc Việt Nam?
Tại sao CSVN lại đồng ý rút lui các đòi hỏi về lãnh hải theo Hiệp Ðịnh nhà
Thanh 1887 mà năm 1974 họ đã từng yêu cầu phía Trung Quốc phải chấp thuận. Tại
sao Trung Quốc đã làm áp lực thế nào mà cả bộ máy lãnh đạo Ðảng CSVN đã phải
cúi đầu ký nhận? Ðã có những nhượng bộ, đe dọa, đổi chác bí mật và bỉ ổi nào đằng
sau các Hiệp Ðịnh trên không?
Nhiều năm đã trôi qua, về chính trị, một số biến cố lịch sử đã làm đảo lộn cán
cân thế giới. Vị trí chiến lược và tầm ảnh hưởng quân sự của Trung - Việt cũng
thay đổi. Liên Bang Sô Viết, chỗ dựa vững chắc cho các lãnh đạo Ðảng CSVN đã và
đang phải lo tự cứu lấy thân. Chủ nghĩa cộng sản bị hủy diệt ngay chính trên
nơi sản sinh ra nó. Các nước xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc và Việt Nam phải
biến theo hướng thị trường chủ nghĩa để sống còn. Việt Nam mất hoàn toàn các thế
lực yểm trợ từ quốc tế vô sản, nên phải dựa dẫm và thần phục đàn anh bá quyền
Trung Quốc. Dù vậy, so với những năm chiến tranh, hiện tại Hà Nội cũng không đến
nổi tệ, phải chịu nhục để mang tiếng bán nước cho ngoại bang. Việt Nam đã không
cần phải ngữa tay xin viện trợ Trung Quốc nữa. Dù về mặt chính trị vẫn chịu ảnh
hưởng nặng nề, nhưng ngược laị về kinh tế Việt Nam đã có những bước tiến bộ. Chỉ
riêng lực lượng người Việt hải ngoại, mỗi năm đã có hơn 10 tỷ dollars gửi về
"cho không biếu không". Số tiền viện trợ không hoàn lại này thừa khả
năng làm đòn bẩy nuôi sống bộ máy nhà nước và thúc đẩy nền kinh tế phi lao động
tại Việt Nam vận chuyển nhịp nhàng.
Trong bối cảnh chính trị và kinh tế như vậy, việc các nhà lãnh đạo đảng CSVN
cam tâm bán nước, nhường đất bán biển cho Trung Quốc vẫn là một ẩn số?
Đỗ Thành Công
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét