(VNCH - 10 ngày Cuối Cùng)
27/4/2018
Rạng sáng ngày Chủ nhật, vào lúc 3 giờ rưỡi, Việt Cộng pháo kích 5 trái hỏa tiễn
vào đô thành gây cho 6 người chết và 22 người bị thương, tuy nhiên tình hình ở
Sài Gòn vẫn yên tĩnh, không có vẻ gì là rối loạn.
Theo Frank Snepp thì vào ngày hôm đó, có nhiều phe nhóm chính trị đã chống lại việc TT Trần Văn Hương không chịu giao quyền cho Dương Văn Minh.
Người đầu tiên
là ông Trần Quốc Bửu, Chủ Tịch Tổng Liên Đoàn Lao Công Việt Nam mà theo Frank Snepp
thì ông ta là người đã cộng tác với CIA từ lâu. ông Bửu đã kêu gọi đoàn viên biểu
tình gây áp lực để đẩy ông Hương ra khỏi chính quyền. Kế đó là Thương tọa Thích
Trí Quang, lãnh tụ Phật giáo Ấn Quang cũng đã kêu gọi TT Trần Văn Hương phải
nhường chức cho Dương Văn Minh và nhóm thứ ba là cựu Phó tổng thống Nguyễn Cao
Kỳ cùng với Linh mục Trần Hữu Thanh, Chủ tịch Phong Trào Nhân Dân Chống Tham
Nhũng đã tham dự một cuộc biểu tình tại giáo xứ Tân Sa Châu với gần mười ngàn
người tham dự.
27/4/2018
Theo ông Trần Văn Đôn thì vào
lúc 3 giờ chiều, Đại sứ Mérillon đã gọi điện thoại cho ông ta và báo tin cho biết
rằng nếu đến 6 giờ chiều hôm đó mà chưa có gì thay đổi thì quân Cộng sản sẽ
pháo kích vào Sài gòn bằng đại bác 13O ly. Theo Jean Lartéguy trong cuốn
L’Adieu à Saigon thì sau ngày 30 tháng 4, một sĩ quan CSBV đã tiết lộ với ông Vũ
Văn Mẫu rằng các đơn vị Cộng sản được lệnh bắt đầu pháo kích vào Sài Gòn bắt đầu
vào lúc 11 giờ tối 30 tháng 4 nếu Sài gòn tiếp tục chống cự và CSBV dự tính rằng
họ sẽ chiếm Sài Gòn vào ngày 7 tháng 5 tức là ngày kỷ niệm chiến thắng Điện
Biên Phủ của họ 21 năm về trước.
Theo Frank Snepp thì vào ngày hôm đó, có nhiều phe nhóm chính trị đã chống lại việc TT Trần Văn Hương không chịu giao quyền cho Dương Văn Minh.
Trong cuộc mít-tinh này, L.M Trần Hữu Thanh và cựu PTT Kỳ lên án
những kẻ hèn nhát đã bỏ nước di tản theo người Mỹ và hô hào đồng bào ở lại để tử
thủ bảo vệ Sài Gòn. Theo Frank Snepp, ông Kỳ đã nói với những người biểu tình rằng:
"cái gọi là chiến thắng của Cộng sản chẳng qua chỉ là hậu quả của việc những
tướng lãnh và sĩ quan của quân đội chúng ta đã chọn sự bỏ chay ngay cả trước
khi họ đựơc yêu cầu".*175 Frank Snepp: sđd, trang 433
Lưỡng Viện Quốc Hội đồng ý "trao quyền "
Cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn cho biết rằng ông cũng đã đóng góp ý kiến với Tổng Thống Trần Văn Hương về vấn đề này:
"Sáng chủ nhật 27 tráng 4, Tổng Thống Hương mời tôi họp tại Dinh Pbó Tổng Thống trên đường Công Lý. Phiên họp gồm có các chủ tịch của Iưỡng Viện Quốc Hội, Tối cao Pháp Viện, Giám sát viện, hai phụ tá của tổng thống là Lê Tài Triển và Lê Công Chất. Tổng Thống Hương tóm lược những vận động chính trị đang diễn tiến bức bách cụ bàn giao cho Tướng Minh cùng lúc với áp lực mặt trận đang đè nặng sát nách đô thành. Tổng Thổng Hương bằng lòng nhường chỗ cho Tướng Minh nhưng cụ thắc mắc không biết dựa vào điều khoản nào của Hiến Pháp vì cụ không muốn xé bỏ hiến pháp và đầu hàng. Cụ nói đúng lý ra thì cụ phải nhường chỗ cho Chủ Tịch Thượng Viện thì mới theo đúng hiến pháp.
“Trong phiên họp có nhiều người am tường luật pháp, nhưng cụ lai hỏi tôi: Thủ Tướng có căn bản luật và hành chánh, lại là cựu chủ tịch Hạ Viện, vậy thủ tướng hãy góp ý tôi giải quyết việc này ra sao?
"Tôi góp ý với Tổng Tổng Hương: “Thưa Tổng Thống, mặc dù chúng ta không thể chống chọi nổi áp lực chính trị và quân sự của ngoại bang và Cộng sản, nhưng tôi cũng xin Tổng Thống đừng dựa vào quyết định cá nhân và tự tiện bàn giao cho tướng Minh vì sự bàn giao vi hiến này có hậu quả chính trị là xé bỏ hiến pháp là tai hại hơn nữa là sử sách sau nầy sẽ lên án Tổng Thống vì bàn giao chức vụ cho Tướng Minh mà sau đó đất nước này mới mất vào tay Cộng sản. "
Tuy Tổng Thống và nhân viên Lưỡng Viện Quốc Hội đều được nhân dân trực tiếp bầu, tuy Tổng Thống được Hiến Pháp giao cho trọng trách Quốc Trưởng lãnh đạo quốc dân, nhưng theo truyền thống dân chủ cũng như tbeo thủ tục đã đựơc áp dụng trên thực tế tại các nước dân chủ lâu đời, mỗi khi cần phải có những quyết định không được dự trù trong hiến pháp để cứu đất nước đang bị lâm nguỵ, họ thường giao trách nhiệm nặng nề này cho quốc hội là cơ quan bao gồm hàng trăm dân cử và thường được chấp nhận là quyền uy tối cao của đất nước. Vậy tôi đề nghị Tổng Thống dành cho lưỡng Viện Quốc Hội quyết định tối hậu "
“Hôi nghị chấp thuận đề nghị của tôi "
Cựu Đại Tướng Cao Văn Viên cũng có nhận xét như sau: "Mặc dù có nhiều sự đồn đãi cho rằng Cộng sản chỉ thương lượng một giải pháp chính trị với Tướng Dương văn Minh, nhưng là một vị tổng thống tin vào hiến pháp, Tổng Thống Hương không thể nào trao chức tổng thống lại cho tướng Minh nếu không có sự đồng ý của Quốc Hội " *177 Cao Văn Viên: sđd, trang 222.
Phiên họp với Tổng Thống Trần Văn Hương chấm dứt vào khoảng 12 giờ trưa ngày chủ nhật với quyết định sẽ giao cho Thượng và Hạ Nghị Viện biểu quyết về vấn đề "trao quyền" cho Tướng Dương Văn Minh để thương thuyết với Cộng sản Bắc Việt nội trong ngày hôm đó, tuy nhiên vì thì giờ quá cấp bách cho nên rất khó mà có thể đạt giấy mời đến các vị nghị sĩ và dân biểu đến tham dự phiên họp đặc biệt này trong vòng chỉ có mấy tiếng đồng hồ.
Cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn cho biết chính đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin đã gọi điện thoại cho ông để yêu cầu giải quyết sự khó khăn này như sau:
"Tôi ra về sau khi từ giã cụ Hương, nhà ái quốc khả kính mà tôi không bao giờ được gặp nữa. Từ địa điểm họp tại tư dinh Phó Tổng Thống về đến tư dinh Thủ tướng tại số 5 Bến Bạch Đằng xe chạy độ 15 phút. Thế mà vừa bước chân vào phòng khách thì điện thoại reo vang. Đại sứ Martin ở phía đầu dây bên kia nói với tôi: tình hình vô cùng khẩn trương. Công việc đang phải giải quyết với cộng sản Bắc việt từng phút từng giây chứ không phải từng ngày, từng giờ nữa. Tưởng là phiên họp với Tổng Thống Hương đã đi đến quyết định là bàn giao ngay nội ngày bôm nay.
“Không ngờ thủ tướngg lại đề nghị “giao quả bóng” qua cho quốc hội, biết chừng nào mới triệu tập cả trăm người đến họp được? Hai ông chủ tịch quốc hội sẽ bó tay không thể nào có phương tiện tống đạt thư mời dân biểu và nghị sĩ được. Vậy xin thủ tướng giúp giùm hai vị này triệu tập phiên họp khẩn cấp nội chiều nay. Nếu trễ kỳ hạn tối nay của Cộng sản thì Sài Gòn sẽ lâm nguy. "
"Tôi liền điện thoại thông báo hai vị chủ tịch Thượng và Hạ viện cứ tống đạt thư mời các dân biểu và nghị sĩ cho đúng nội quy, nhưng e rằng thư mời sẽ không đến tay đầy đủ cbo các vị dân cử đâu. Tôi chỉ thị lập tức cho hai đài truyền thanh và truyền hình ngưng tất cả các chương trình phát thanh thường lệ.
"Bắt đầu từ giờ phút này, chỉ phát thanh nhạc hùng, tạo không khí khẩn trương y như khi có biến cố trước đây và đọc thư mời các nghị sĩ và dân biểu đến dự phiên họp khoáng đại lưỡng viện tại Hội Trường Diên Hồng, trụ sở của Thượng nghị viện vào lúc 7 giờ tối nay" *178 Nguyễn Bá Cẩn: Sđd, trang 436.
Trong buổi chiều hôm đó, Đài Phát thanh Sài gòn liên tiếp đọc đi đọc lại từng giờ thư mời của Nghị sĩ Trần Văn Lắm yêu cầu các dân biểu và nghị sĩ đến dự phiên họp đặc biệt khẩn cấp tại trụ sở Thượng Viện vào lúc 6 giờ chiều cùng ngày. Phiên họp Lưỡng Viện khai diễn vào lúc 7 giờ 30 tối với 138 nghị sĩ và dân biểu hiện diện: Có nhiều người sau này nói rằng phiên họp này không hợp pháp vì không đủ túc số, tuy nhiên điều đó không đúng vì vào tháng 4 năm 1975, tổng số dân biểu và nghị sĩ trong hai viện quốc hội là 219 người, theo nội quy của quốc hội thì chỉ cần quá bán tổng số tức là 110 người là đủ túc số để họp lưỡng viện, như vậy con số 138 người thì đã quá đủ túc số rồi.
Theo lời yêu cầu của Chủ tịch Thượng Viện, ông Trần Văn Đôn, Tổng trưởng Quốc Phòng đã hướng dẫn một phái đoàn quân sự đến quốc hội để trình bày về tình hình quân sự và vòng đai phòng thủ Sài gòn. Phái đoàn này gồm có Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tư Lệnh QLVNCH, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô, Trung Tướng Trần Văn Minh, Tư Lệnh Không Quân, Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang, Tư lệnh Hải Quân, Chuẩn tướng Trần Đình Thọ, Trưởng Phòng 3 và Trung Tâm Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu và Đại tá Hoàng Ngọc Lung, Trưởng Phòng 2/Quân Báo thuộc Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH.
Ông Trần Văn Đôn, với tư cách là Xử Lý Thường vụ Tổng trưởng Quốc Phòng, đã thuyết trình cho Lưỡng Viện Quốc hội tình hình bi đát của đất nước kể từ khi Ban Mê Thuột thất thủ ngày 10/3/75, sau đó mất Quảng trị ngày 19/3 An Lộc ngày 20/3, Huế ngày 26/3 Quảng Tín ngày 24/3, Quảng Ngãi ngày 25/3, Đà nẵng ngày 29/3, Quy Nhơn ngày 1 tháng 4, Nha trang ngày 2 tháng 4, Đà Lạt ngày 4/4, Phan Rang ngày 16/4, Phan Thiết ngày 19/4, Xuân Lộc ngày 20/4 và ngay trong lúc quốc hội đang họp thì quân Cộng sản Bắc Việt đã tới Biên Hoà.
Phái đoàn Trần Văn Đôn tường trình với Lưỡng Viện Quốc Hội rằng hiện CS Bắc Việt đang có tới 16 sư đoàn tức là vào khoảng hơn 160.000 quân đang bao vây Sài Gòn cùng với sự yểm trợ của một số rất đông thiết giáp và pháo binh hạng nặng, trong khi đó thì vòng đai phòng thủ của ta đang từ từ bị thu hẹp. Có hai nghị sĩ là Phạm Đình Ái và Vũ Văn Mẫu hỏi phái đoàn Quốc Phòng lực lượng tổng trừ bị của VNCH ở đâu và vòng đai phòng thủ như thế nào thì được trả lời rằng tổng trừ bị đang ở vòng đai phòng thủ Sài Gòn cùng với hai sư đoàn 5 và 25.
Tuy nhiên hai đại đơn vị này đã bị quân Cộng sản cầm chân, Sư đoàn 5 bị quân Cộng sản vây ở căn cứ Lai Khê và Sư Đoàn 25 đang bị vây ở căn cứ Đồng Dù, còn trong thủ đô Sài Gòn thì chỉ có Cảnh sát Dã chiến cùng với một số đơn vị Biệt Động Quân bảo vệ.
Cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn cho biết thêm một vài chi tiết về phiên họp đặc biệt này của lưỡng viện như sau:
"Sau khi ba tướng Trần Văn Đôn, Nguyễn văn Minh và Nguyễn Khắc Bình ra về để cho lưỡng viện quốc hội tiếp tục thảo luận, thời giờ qua rất nhanh thế mà các nghị sĩ dân biểu kéo dài cuộc thảo luận dằn co xung quanh hai đề tài hợp hiến và chủ quyền quốc gia, chưa chịu biểu quyết. Dân biểu Phạm Anh, Tổng Trưởng Đặc trách liên Lạc Quổc Hội, từ hội trường Diên Hồng báo cáo với tôi rằng các nghị sĩ và dân biểu thuộc phe cầm quyền không chống đối việc trao quyền cho Dương Văn Minh vì muốn tránh đổ máu cho nhân dân trong đô thành. Trái lại một chuyện bất ngờ và đầy mâu thuẩn đã xảy ra là nghị sĩ và dân biểu đối lập lại do dự chưa chịu biểu quyết cho tướng Minh là người mà họ đã ủng hộ lâu nay.
“Khi trao đổi với nhau một cách bán chính thức ngoài hành lang của hội trường, một số dân biểu và nghị sĩ đối lập cho biết “sở dĩ họ chống việc trao quyền cho tướng Minh là vì họ nghĩ rằng Tướng Minh sẽ không đủ tài ba để giữ nước mà sẽ làm mất nước vào tay Cộng sản. " được hỏi “nếu vậy thì tại sao lâu nay quí anh tín nhiệm tướng Minh như lãnh tụ đối lập trong nước” thì các dân biểu và nghị sĩ đối lập trả lời rằng: “chúng tôi nào có tín nhiệm và tin tưởng Tướng Minh. Chúng tôi chỉ dùng tướng Minh để phá Tổng Thống Thiệu mà thôi!"
“Cũng nên nói thêm là hai toà đại sứ Hoa Kỳ và Pháp vận động khá mạnh nên sau cùng lưỡng viện quốc bội ngưng thảo luận để biểu quyết ". *179 Nguyễn Bá Cẩn: Sđd, trang 442-443
Sau đó, vào lúc 8 giờ 45 tối, Thượng Nghị Sĩ Trần Văn Lắm đọc câu hỏi sau đây trước Lưỡng Viện Quốc hội "Ai đồng ý là TT Trần Văn Hương nên trao quyền cho ông Minh để ông ta có thể tìm kiếm một con đường vãn hồi hòa bình cho Việt Nam?" 136 trong tổng số 138 dân biểu và nghị sĩ bỏ phiếu thuận, hai người không bỏ phiếu là TNS Trần Văn Lắm, Chủ Tịch Thượng Viện và Dân biểu Phạm Văn Út, Chủ Tịch Hạ Viện vì theo nội quy của Thượng và Hạ viện thì vị chủ tịch chỉ bỏ phiếu khi nào không đủ đa số mà thôi.
Như vậy, chỉ 24 tiếng đồng hồ sau quyết nghị ngày 26/4, Quốc Hội đã thông qua một quyết nghị mới minh định việc cả hai viện lập pháp chấp thuận việc TT Trần Văn Hương trao quyền lại cho ông Dương Văn Minh và có như vậy thì việc Cụ Trần Văn Hương trao quyền mới có vẻ như là có tính cách hợp hiến và hợp pháp và đó là điều mà Cụ trông đợi. Ông Trần Văn Đôn kể lại rằng tối hôm đó ông đến nhà Cụ Hương để thông báo việc xảy ra ở quốc hội thì Cụ nhờ ông Đôn nói lại với ông Dương Văn Minh là Cụ sẵn sàng trao quyền bất cứ lúc nào.
Khi ông Đôn ra về, Cụ Hương nói với ông Đôn rằng: "họ muốn có ông Minh thì có ông Minh!”. Theo ông Đôn thì sau đó ông Nguyễn Xuân Oánh và ông đến toà đại sứ Pháp và Mỹ thông báo việc quốc hội đã chấp thuận việc trao quyền cho ông Dương Văn Minh rồi cả hai người ghé đến nhà ông Minh. Ông Đôn nói với ông Minh là Cụ Hương sẵn sàng trao quyền bất cứ lúc nào thì ông Minh nói rằng ông ta sẽ nhậm chức vào lúc 5 giờ chiều ngày hôm sau, thứ Hai 28 tháng 4 năm 1975. (Đại úy Nguyễn Văn Nhựt, cựu tùy viên của TT Trần Văn Hương quả quyết với người viết rằng tối 27 tháng 4 cũng như tối hôm sau 28 tháng 4, Cụ Hương không hề tiếp ông Đôn tại Phủ Phó Tổng Thống trên đường Hiền Vương).
Sau khi Dương Văn Minh đã chính thức được quốc hội chấp thuận giao quyền tổng thống, khuya hôm đó, theo Frank Snepp, đại sứ Hoa Kỳ Martin mới chỉ thị cho Polgar, trùm CIA Sài Gòn, đi đón những nhân vật thân cận và trung thành với ông Thiệu đưa lên phi trường Tân Sơn Nhất rồi họ được một chuyến bay đặc biệt đưa sang Căn cứ Không Quân Clark tại Phi Luật Tân.
Trong khi tại Sài Gòn, hai viện quốc hội đã thông qua quyết nghị cho phép TT Trần Văn Hương " trao quyền” cho ông cựu Đại tướng Dương Văn Minh để "điều đình" với Cộng sản thì tại Hà Nội, Võ Nguyên Giáp đã nhân danh Quân ủy Trung Ương gửi một chỉ thị mang số 113/QUTW ngày 27 tháng 4 năm 1975 cho các đơn vị Cộng sản tại miền Nam về "nhiệm vụ của các đơn vị quân đội quản lý thành phố Sài Gòn-Gia Định".
Trong cuốn " Việt Nam Nhân Chứng," tác giả Trần Văn Đôn cho biết thân phụ của ông là công dân Pháp và ông ra đời tại Bordeaux vào năm 1917, rồi theo cha trở về Việt Nam. Đến năm 1927, ông lại được cha cho sang Pháp "du học” lúc mới 10 tuổi. Sau hai năm, ông về thăm nhà và không muốn trở lại Pháp nên học ở Sài Gòn cùng lớp với Dương Văn Minh. Sau khi đậu tú tài, vào năm 1939 sang Pháp học về Cao Đẳng Thương Mại (Hautes etudes Commerciales) nhưng khi Đệ Nhị Thế chiến bùng nổ vào năm đó thì bị động viên vào quân đội với cấp bậc binh nhì.
Sang năm 194O được vào học trường sĩ quan trừ bi St. Maixent nhưng giữa chừng thì phải ra trận rồi bị Đức Quốc xã bắt.
Năm 1940 lại theo cha là Trung úy Y sĩ Trần Văn Đôn về Việt Nam và phục vụ trong quân đội Pháp. Năm 1944 ông được người Pháp gởi đi học sĩ quan tại Trường Đồi Thông, được người Pháp đọc là Trường Tông ở Phú Thọ và trở thành sĩ quan trong Quân Đội Pháp. Năm 1947 được làm sĩ quan tuỳ viên cho Thủ Tướng Nguyễn Văn Xuân rồi đến năm 1950 được sang Pháp theo học Trường Cao Đẳng Quốc Phòng trong 1 năm, về nước năm 1951 và được cử phụ trách Nha An Ninh Quân Đội.
Trong cuốn "Viêtnam, Qu’as Tu Fait De Tes Fils," tác giả Pierre Darcourt có viết về Trần Văn Đôn như sau: Trần Văn Đôn có dáng dấp của một tướng làm chính trị hơn là chỉ huy. Quen với các trò âm mưu trong hậu trường và với các trò xin xỏ trong chính phủ, sự nghiệp và thăng thưởng của hắn nhờ ở sự bợ đỡ hơn là thành tích. Trung úy Trần Văn Đôn bắt đầu leo lên hoạt động chính trị từ năm 1946 lẻo đẻo theo xách cặp cho tướng Nguyễn Văn Xuân, sau đó theo Trần Văn Hữu rồi đến Ngô Đình Diệm. Năm 1956 nhiều bạn người Pháp và bạn trong quân đội đã khinh miệt hắn vì để làm đẹp lòng TT Ngô Đình Diệm, hắn đã chủ tọa một buổi lễ đốt các tàn tích của thời thực dân Pháp thống trị” và Đôn đã "liệng cặp lon đại tá cùng với các huy chương mà quan thầy Pháp ban cho vào lửa. Chú ruột của Trần Văn Đôn giận quá và đã tặng hắn hai cái bạt tai nẫy lửa”.
(Ghi chú của người viết. Đại tá Trần Văn Đôn cùng với một số sĩ quan cao cấp hồi đó đã từ bỏ quốc tịch Pháp và làm lễ đốt lon của Pháp để lấy điểm với chính quyền Ngô Đình Diệm và ông Diệm đã thăng cấp cho Trần Văn Đôn lên thiếu tướng, chỉ có Đại tá Lê Văn Kim, em rể của Trần Văn Đôn, và Đại Tá Trần Văn Hổ không chịu bỏ quốc tịch Pháp để được lên tướng cho nên không được lòng ông Ngô Đình Diệm. Trong cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963 Trung Tướng Lê Văn Kim được xem là đầu não, là linh hồn trong nhóm bộ ba Dương Văn Minh-Trần Văn Đôn-Lê Văn Kim và sau khi ông Diệm và ông Nhu bị giết, Tướng Lê Văn Kim được chỉ định làm ủy Viên Chính trị của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, một chức vụ tương đương với chức vụ Cố Vấn Chính trị tại Phủ Tổng Thống mà ông Ngô Đình Nhu nắm giữ trong suốt 9 năm ông Diệm nắm chính quyền.)
“Trần Văn Đôn lo xa nên hay đi ngoại quốc, nhất là những nước có liên lạc thân hữu với Pháp. Tại Paris, hắn đã tìm gặp các quan thầy cũ để tỏ lòng hối hận vì đã dám đốt lon và huy chương của Pháp. Sau năm 1975, Trần Văn Đôn đã nhờ Tướng Loisillon của quân đội Pháp vận động xin với chính phủ Pháp cho hắn lãnh tiền hưu trí vì đã phục vụ nước Pháp trong 16 nắm trời (1940-1956) và hắn đã lãnh được sổ tiền là 130.OOO quan (khoảng 32,OOO đô-la). Đồng thời, Trần Văn Đôn cũng đã nhờ Jean Sainteny (cựu Cao ủy Pháp tại Bắc Việt và là người rất thân với Hồ Chí Minh) môi giới để hắn móc nối với những kẻ có liên lạc với Việt Cộng và Hà Nội. Trần Văn Đôn nổi tiếng là người có tài thông gian với nhiều phụ nữ Việt Nam có chồng nhưng mà vẫn giữ được liên lạc tốt với những người bị cắm sừng và giữ đựơc liên lạc với vợ của hắn”*181: Pierre Darcourt: "Vietnam, Q’as Tu Fait de Tes Fils." bản dịch của Phạm Kim Vinh trong Saigon, Người Việt, PO Box 486, Westminster, CA 92683, 1979, tr. 109-110)
Người viết có hỏi cựu Đại úy Nguyễn Văn Nhựt sĩ quan tùy viên của Cụ Trần Văn Hương cho đến ngày cuối cùng, về tin đồn nói rằng vào cuối tháng 4 năm 1975, Cụ Hương dự định mời ông Trần Văn Đôn làm thủ tướng thì ông Nhựt trả lời rằng " tôi ở bên cạnh Cụ gần như là suốt ngày đêm trong thời gian đó và tôi không hề nghe Cụ nói với ai về việc mời ông Đôn làm thủ tướng. Riêng về ông Đôn thì Cụ có nói như vầy: “Cái ông đó thì tôi không bao giờ mời làm một chức vụ gì cả."
Để có thể hiểu thêm về nhân vật này, có một câu chuyện được chính ông Trần văn Đôn kể lại cho bạn bè của ông và trong giới chính trị cũng như các vị tướng lãnh có nhiều người biết chuyện này. Người kể lại câu chuyện này với người viết là một nhân vật có nhiều liên hệ với ông Đôn từ Sài gòn cũng như sau năm 1975. Theo lời ông Đôn kể lại thì vào khoảng thập niên 1980, ông Đôn bị một chứng bệnh gì đó và được vào điều trị trong bệnh viện Val De Grace, tức là quân y viện lớn nhất của quân đội Pháp ở gần Paris và ông đã kết thân với một vị bác sĩ Quân Y người Pháp phục vụ tại bệnh viện này. Ông Đôn vốn là công dân Pháp trước năm 1955, là cựu sĩ quan trong quân đội Pháp cho nên đã được hưởng quyền lợi đặc biệt này.
Trong thời gian dưỡng bệnh ở đây, ông Đôn hàng ngày đi dạo và thường gặp một người Việt Nam khá lớn tuổi cũng đi dạo trong sân bệnh viện với người theo hầu và mỗi lần gặp thì bao giờ ông Đôn cũng cúi đầu chào. Nhiều lần như vậy thì người bệnh nhân lớn tuổi đó cũng chào đáp lễ và có lần ông ta dừng lại chuyện trò thăm hỏi với ông Đôn. Người đó nghe giọng nói của ông Đôn thì biết là người Miền Nam, ông ta hỏi tên tuổi và sau khi ông Đôn tự giới thiệu thì ông già đó nói "à, cái tên đó thì tôi cũng có nghe"'
Ông già đó là Lê Đức Thọ, lúc đó đang được chính phủ Pháp cho sang chữa bệnh tại Paris.
Những lần sau, Lê Đức Thọ gặp ông Đôn cùng đi với vị bác sĩ người Pháp thì cũng chuyện trò vui vẻ và có lần ông ta nói với ông Đôn là nên về thăm quê hương vì "đất nước đang cần bàn tay xây dựng của Việt kiều". Vị bác sĩ người Pháp, cũng là y sĩ điều trị cho Lê Đức Thọ, nói với Lê Đức Thọ rằng cả hai người muốn cùng đi chung sang thăm Việt Nam một chuyến thì ông Thọ hứa là sẽ ra lệnh cho sứ quán lo thủ tục cấp chiếu khán khẩn cấp cho hai người. Vài ngày sau, có nhân viên của sứ quán Cộng sản đến bệnh viện và đưa chiếu khán nhập cảnh Việt Nam vô hạn định cho vị bác sĩ người Pháp, ông Đôn bèn hỏi về trường hợp của ông. Tên nhân viên sứ quán hỏi tên ông Đôn và sau khi được ông Đôn cho biết tên thì y trả lời bằng một giọng lạnh lùng "trường hợp của anh thì phải theo thủ tục thông thường "
Nhận định về phúc trình của Trần Văn Đôn tại Lưỡng viện Quốc hội ngày 27 tháng 4 năm 1975, Jean Lartéguy đã viết trong L'Adieu à Saigon rằng “tướng Đôn thì chẳng có gì để mất mát nhiều. Sinh tại tỉnh Bordeaux, ông là dân Tây. Và mặc dù ông ta đã đốt giấy thông hành và đốt cặp lon đại tá của quân đội Pháp để làm đẹp lòng ông Ngô Đình Diệm và bà Nhu, nhưng ông ta biết là không thể mất cái quốc tịch Pháp. Những trò hề!*183 Jean Lartéguy: L'Adieu À Saigon, bản dịch Saigon, trang 17
Pierre Darcourt cho biết về phản ứng của một số dân cử về báo cáo của ông Đôn: “Trần Văn Đôn đã dệt ra một bức tranh vô cùng bi thảm. Chỉ vài ngày, có thể chỉ vài giờ nữa, Sài gòn có thể bị đại bác 130 ly của Cộng sản tàn phá. Vậy phải thương thuyết ngay để có ngừng bắn càng sớm càng tốt". Darcourt nói thêm rằng: “ngày sau đó, các dân biểu nghị sĩ trẻ đã thốt ra những lời giận dữ và khinh bỉ: "Đồ bán nước! Quân đầu hàng! Tướng phòng ngủ!" Darcourt cho biết là Bác sĩ Thức, trưởng khối Cộng Hoà đã tiến về phiá Đôn và hét lên nhiều lần: “đồ phản quốc! Phản quốc! Mầy chỉ là một tên phản quốc! Mày đáng bị xử bắn!' *184 Pierre Darcourt: sđd, bản dịch "Saigon," trang 113
Pierre Darcourt tiết lộ rằng: "trước đó vài giờ, giữ cho trọn nghiã bầy tôi với nước Pháp, Đôn đã tới từ biệt đại sứ Pháp Mérillon và để lãnh giấy thông hành quốc tịch Pháp"
Theo Jean Lartéguy trong L'Adieu À Saigon, khi ông ta đến dùng cơm trưa với Đại sứ Mérillon thì ông đại sứ thò đầu qua cửa sổ nói với ông rằng "xin lỗi, chờ tôi một lát vì tôi đang tiếp một thân hữu. Ông ấy đến từ biệt tôi" Jean Lartéguy nói rằng "Đó là Trần Văn Đôn. Ngày hôm qua (26-4-75), ông ta còn là Phó Thủ Tướng kiêm Tổng trưởng Quốc Phòng và đã có lúc nghĩ tới việc nắm lấy ghế thủ tướng, nếu không nắm được cái ghế quốc trưởng. Hôm trước, Đôn hoạt động mạnh để đẩy Hương khỏi cái ghế tổng thống vì Đôn dệt ra một tình hình quân sự bi thảm dưới sự thật. Trong những ngày gần đây, Đôn là bầy tôi trung thành của chính sách Pháp. Người ta bảo tôi rằng nhiều tháng trước đây, Đôn đựơc toà đại sứ Pháp nghe theo về rất nhiều điều. Tướng Đôn bảnh trai, xuất sắc, nhẹ nhàng đã tới toà đại sứ Pháp để lấy sổ thông hành (passport) của nước Pháp. Phải chăng ông ta sanh tại tỉnh Bordeaux?*185
Như vậy thì vào ngày 27 tháng 4 năm 1975, cựu Trung tướng Trần Văn Đôn đã có thông hành của Pháp, điều đó có nghĩa là ông ta đã hồi tịch trước đó hoặc là ông ta không hề mất cái quốc tịch Pháp “thổ sinh" như Jean Lartéguy đã nói và một công dân nước Pháp như ông ta tại sao lại được mời ra thuyết trình về an ninh quốc phòng tại lưỡng viện quốc hội của nước VNCH?
Báo chí Việt ngữ trong nước đã trích thuật lại rằng
cựu Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ đã kêu gọi mọi nười ở lại chiến đấu chống lại
Cộng sản Bắc Việt, ông nói rằng ông cũng sẽ ở lại để chiến đấu chứ không đi đâu
cả, không di tản ra ngoại quốc vì "ở bên đó làm gì có rau muống, mắm tôm
mà ăn?.. . "
Lưỡng Viện Quốc Hội đồng ý "trao quyền "
Vào lúc 10 giờ sáng, TT trần Văn Hương mời Nghị sĩ Trần Văn Lắm, Chủ tịch Thượng
Viện, Dân biểu Phạm Văn Út, Chủ tịch Hạ Viện, Thẩm phán Trần Văn Linh, Chủ tịch Tối Cao Pháp Viện, Thẩm phán Lê Tài Triển, Phụ tá Tư pháp của Tổng Thống, Trần
Văn Đôn, Tổng trưởng Quốc Phòng và Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tư Lệnh Quân Lực
VNCH, để nghiên cứu kỹ các điều khoản trong bản Hiến Pháp của VNCH và thảo luận
về việc yêu cầu quốc hội biểu quyết về đề nghị của TT Trần Văn Hương trao quyền
cho một người không được quy định trong hiến pháp.
Buổi họp kết thúc vào khoảng
12 giờ trưa và TT Trần Văn Hương đã yêu cầu Nghị sĩ Trần Văn Lắm triệu tập một
phiên họp khẩn cấp của Lưỡng Viện Quốc Hội vào buổi chiều hôm đó để thảo luận dứt
khoát và biểu quyết về đề nghị giao quyền tổng thống VNCH lại cho ông Dương Văn
Minh.
Cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn cho biết rằng ông cũng đã đóng góp ý kiến với Tổng Thống Trần Văn Hương về vấn đề này:
"Sáng chủ nhật 27 tráng 4, Tổng Thống Hương mời tôi họp tại Dinh Pbó Tổng Thống trên đường Công Lý. Phiên họp gồm có các chủ tịch của Iưỡng Viện Quốc Hội, Tối cao Pháp Viện, Giám sát viện, hai phụ tá của tổng thống là Lê Tài Triển và Lê Công Chất. Tổng Thống Hương tóm lược những vận động chính trị đang diễn tiến bức bách cụ bàn giao cho Tướng Minh cùng lúc với áp lực mặt trận đang đè nặng sát nách đô thành. Tổng Thổng Hương bằng lòng nhường chỗ cho Tướng Minh nhưng cụ thắc mắc không biết dựa vào điều khoản nào của Hiến Pháp vì cụ không muốn xé bỏ hiến pháp và đầu hàng. Cụ nói đúng lý ra thì cụ phải nhường chỗ cho Chủ Tịch Thượng Viện thì mới theo đúng hiến pháp.
“Trong phiên họp có nhiều người am tường luật pháp, nhưng cụ lai hỏi tôi: Thủ Tướng có căn bản luật và hành chánh, lại là cựu chủ tịch Hạ Viện, vậy thủ tướng hãy góp ý tôi giải quyết việc này ra sao?
"Tôi góp ý với Tổng Tổng Hương: “Thưa Tổng Thống, mặc dù chúng ta không thể chống chọi nổi áp lực chính trị và quân sự của ngoại bang và Cộng sản, nhưng tôi cũng xin Tổng Thống đừng dựa vào quyết định cá nhân và tự tiện bàn giao cho tướng Minh vì sự bàn giao vi hiến này có hậu quả chính trị là xé bỏ hiến pháp là tai hại hơn nữa là sử sách sau nầy sẽ lên án Tổng Thống vì bàn giao chức vụ cho Tướng Minh mà sau đó đất nước này mới mất vào tay Cộng sản. "
Tuy Tổng Thống và nhân viên Lưỡng Viện Quốc Hội đều được nhân dân trực tiếp bầu, tuy Tổng Thống được Hiến Pháp giao cho trọng trách Quốc Trưởng lãnh đạo quốc dân, nhưng theo truyền thống dân chủ cũng như tbeo thủ tục đã đựơc áp dụng trên thực tế tại các nước dân chủ lâu đời, mỗi khi cần phải có những quyết định không được dự trù trong hiến pháp để cứu đất nước đang bị lâm nguỵ, họ thường giao trách nhiệm nặng nề này cho quốc hội là cơ quan bao gồm hàng trăm dân cử và thường được chấp nhận là quyền uy tối cao của đất nước. Vậy tôi đề nghị Tổng Thống dành cho lưỡng Viện Quốc Hội quyết định tối hậu "
“Hôi nghị chấp thuận đề nghị của tôi "
*176 Nguyễn Bá Cẩn: Sđd, trang 432-433
Cựu Đại Tướng Cao Văn Viên cũng có nhận xét như sau: "Mặc dù có nhiều sự đồn đãi cho rằng Cộng sản chỉ thương lượng một giải pháp chính trị với Tướng Dương văn Minh, nhưng là một vị tổng thống tin vào hiến pháp, Tổng Thống Hương không thể nào trao chức tổng thống lại cho tướng Minh nếu không có sự đồng ý của Quốc Hội " *177 Cao Văn Viên: sđd, trang 222.
Phiên họp với Tổng Thống Trần Văn Hương chấm dứt vào khoảng 12 giờ trưa ngày chủ nhật với quyết định sẽ giao cho Thượng và Hạ Nghị Viện biểu quyết về vấn đề "trao quyền" cho Tướng Dương Văn Minh để thương thuyết với Cộng sản Bắc Việt nội trong ngày hôm đó, tuy nhiên vì thì giờ quá cấp bách cho nên rất khó mà có thể đạt giấy mời đến các vị nghị sĩ và dân biểu đến tham dự phiên họp đặc biệt này trong vòng chỉ có mấy tiếng đồng hồ.
Cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn cho biết chính đại sứ Hoa Kỳ Graham Martin đã gọi điện thoại cho ông để yêu cầu giải quyết sự khó khăn này như sau:
"Tôi ra về sau khi từ giã cụ Hương, nhà ái quốc khả kính mà tôi không bao giờ được gặp nữa. Từ địa điểm họp tại tư dinh Phó Tổng Thống về đến tư dinh Thủ tướng tại số 5 Bến Bạch Đằng xe chạy độ 15 phút. Thế mà vừa bước chân vào phòng khách thì điện thoại reo vang. Đại sứ Martin ở phía đầu dây bên kia nói với tôi: tình hình vô cùng khẩn trương. Công việc đang phải giải quyết với cộng sản Bắc việt từng phút từng giây chứ không phải từng ngày, từng giờ nữa. Tưởng là phiên họp với Tổng Thống Hương đã đi đến quyết định là bàn giao ngay nội ngày bôm nay.
“Không ngờ thủ tướngg lại đề nghị “giao quả bóng” qua cho quốc hội, biết chừng nào mới triệu tập cả trăm người đến họp được? Hai ông chủ tịch quốc hội sẽ bó tay không thể nào có phương tiện tống đạt thư mời dân biểu và nghị sĩ được. Vậy xin thủ tướng giúp giùm hai vị này triệu tập phiên họp khẩn cấp nội chiều nay. Nếu trễ kỳ hạn tối nay của Cộng sản thì Sài Gòn sẽ lâm nguy. "
"Tôi liền điện thoại thông báo hai vị chủ tịch Thượng và Hạ viện cứ tống đạt thư mời các dân biểu và nghị sĩ cho đúng nội quy, nhưng e rằng thư mời sẽ không đến tay đầy đủ cbo các vị dân cử đâu. Tôi chỉ thị lập tức cho hai đài truyền thanh và truyền hình ngưng tất cả các chương trình phát thanh thường lệ.
"Bắt đầu từ giờ phút này, chỉ phát thanh nhạc hùng, tạo không khí khẩn trương y như khi có biến cố trước đây và đọc thư mời các nghị sĩ và dân biểu đến dự phiên họp khoáng đại lưỡng viện tại Hội Trường Diên Hồng, trụ sở của Thượng nghị viện vào lúc 7 giờ tối nay" *178 Nguyễn Bá Cẩn: Sđd, trang 436.
Trong buổi chiều hôm đó, Đài Phát thanh Sài gòn liên tiếp đọc đi đọc lại từng giờ thư mời của Nghị sĩ Trần Văn Lắm yêu cầu các dân biểu và nghị sĩ đến dự phiên họp đặc biệt khẩn cấp tại trụ sở Thượng Viện vào lúc 6 giờ chiều cùng ngày. Phiên họp Lưỡng Viện khai diễn vào lúc 7 giờ 30 tối với 138 nghị sĩ và dân biểu hiện diện: Có nhiều người sau này nói rằng phiên họp này không hợp pháp vì không đủ túc số, tuy nhiên điều đó không đúng vì vào tháng 4 năm 1975, tổng số dân biểu và nghị sĩ trong hai viện quốc hội là 219 người, theo nội quy của quốc hội thì chỉ cần quá bán tổng số tức là 110 người là đủ túc số để họp lưỡng viện, như vậy con số 138 người thì đã quá đủ túc số rồi.
Theo lời yêu cầu của Chủ tịch Thượng Viện, ông Trần Văn Đôn, Tổng trưởng Quốc Phòng đã hướng dẫn một phái đoàn quân sự đến quốc hội để trình bày về tình hình quân sự và vòng đai phòng thủ Sài gòn. Phái đoàn này gồm có Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tư Lệnh QLVNCH, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô, Trung Tướng Trần Văn Minh, Tư Lệnh Không Quân, Phó Đô Đốc Chung Tấn Cang, Tư lệnh Hải Quân, Chuẩn tướng Trần Đình Thọ, Trưởng Phòng 3 và Trung Tâm Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu và Đại tá Hoàng Ngọc Lung, Trưởng Phòng 2/Quân Báo thuộc Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH.
Ông Trần Văn Đôn, với tư cách là Xử Lý Thường vụ Tổng trưởng Quốc Phòng, đã thuyết trình cho Lưỡng Viện Quốc hội tình hình bi đát của đất nước kể từ khi Ban Mê Thuột thất thủ ngày 10/3/75, sau đó mất Quảng trị ngày 19/3 An Lộc ngày 20/3, Huế ngày 26/3 Quảng Tín ngày 24/3, Quảng Ngãi ngày 25/3, Đà nẵng ngày 29/3, Quy Nhơn ngày 1 tháng 4, Nha trang ngày 2 tháng 4, Đà Lạt ngày 4/4, Phan Rang ngày 16/4, Phan Thiết ngày 19/4, Xuân Lộc ngày 20/4 và ngay trong lúc quốc hội đang họp thì quân Cộng sản Bắc Việt đã tới Biên Hoà.
Phái đoàn Trần Văn Đôn tường trình với Lưỡng Viện Quốc Hội rằng hiện CS Bắc Việt đang có tới 16 sư đoàn tức là vào khoảng hơn 160.000 quân đang bao vây Sài Gòn cùng với sự yểm trợ của một số rất đông thiết giáp và pháo binh hạng nặng, trong khi đó thì vòng đai phòng thủ của ta đang từ từ bị thu hẹp. Có hai nghị sĩ là Phạm Đình Ái và Vũ Văn Mẫu hỏi phái đoàn Quốc Phòng lực lượng tổng trừ bị của VNCH ở đâu và vòng đai phòng thủ như thế nào thì được trả lời rằng tổng trừ bị đang ở vòng đai phòng thủ Sài Gòn cùng với hai sư đoàn 5 và 25.
Tuy nhiên hai đại đơn vị này đã bị quân Cộng sản cầm chân, Sư đoàn 5 bị quân Cộng sản vây ở căn cứ Lai Khê và Sư Đoàn 25 đang bị vây ở căn cứ Đồng Dù, còn trong thủ đô Sài Gòn thì chỉ có Cảnh sát Dã chiến cùng với một số đơn vị Biệt Động Quân bảo vệ.
Tóm lại, phái đoàn phúc trình rằng tổng số quân VNCH bảo vệ thủ đô
chỉ có khoảng 60.000 người và không có khả năng tăng viện thêm trong khi đó thì
quân CSBV đông gấp 3 lần và quân của họ từ các vùng miền Bắc và Miền Trung tiếp
tục kéo về càng ngày càng đông và đó là viễn ảnh của mặt trận Sài Gòn trong một
vài ngày sắp tới. Theo một nhà báo Pháp thì trong bài thuyết trình này, ông Trần
Văn Đôn "đã đặt ra một bức tranh vô cùng bi thảm: chỉ vài ngày, có thể chỉ
vài giờ nữa, Sài gòn có thể bị đại bác 13O ly của Cộng sản tàn phá. Vậy phải
thương thuyết ngay để có ngưng bắn càng sớm càng tốt . "
Cựu Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn cho biết thêm một vài chi tiết về phiên họp đặc biệt này của lưỡng viện như sau:
"Sau khi ba tướng Trần Văn Đôn, Nguyễn văn Minh và Nguyễn Khắc Bình ra về để cho lưỡng viện quốc hội tiếp tục thảo luận, thời giờ qua rất nhanh thế mà các nghị sĩ dân biểu kéo dài cuộc thảo luận dằn co xung quanh hai đề tài hợp hiến và chủ quyền quốc gia, chưa chịu biểu quyết. Dân biểu Phạm Anh, Tổng Trưởng Đặc trách liên Lạc Quổc Hội, từ hội trường Diên Hồng báo cáo với tôi rằng các nghị sĩ và dân biểu thuộc phe cầm quyền không chống đối việc trao quyền cho Dương Văn Minh vì muốn tránh đổ máu cho nhân dân trong đô thành. Trái lại một chuyện bất ngờ và đầy mâu thuẩn đã xảy ra là nghị sĩ và dân biểu đối lập lại do dự chưa chịu biểu quyết cho tướng Minh là người mà họ đã ủng hộ lâu nay.
“Khi trao đổi với nhau một cách bán chính thức ngoài hành lang của hội trường, một số dân biểu và nghị sĩ đối lập cho biết “sở dĩ họ chống việc trao quyền cho tướng Minh là vì họ nghĩ rằng Tướng Minh sẽ không đủ tài ba để giữ nước mà sẽ làm mất nước vào tay Cộng sản. " được hỏi “nếu vậy thì tại sao lâu nay quí anh tín nhiệm tướng Minh như lãnh tụ đối lập trong nước” thì các dân biểu và nghị sĩ đối lập trả lời rằng: “chúng tôi nào có tín nhiệm và tin tưởng Tướng Minh. Chúng tôi chỉ dùng tướng Minh để phá Tổng Thống Thiệu mà thôi!"
“Cũng nên nói thêm là hai toà đại sứ Hoa Kỳ và Pháp vận động khá mạnh nên sau cùng lưỡng viện quốc bội ngưng thảo luận để biểu quyết ". *179 Nguyễn Bá Cẩn: Sđd, trang 442-443
Sau đó, vào lúc 8 giờ 45 tối, Thượng Nghị Sĩ Trần Văn Lắm đọc câu hỏi sau đây trước Lưỡng Viện Quốc hội "Ai đồng ý là TT Trần Văn Hương nên trao quyền cho ông Minh để ông ta có thể tìm kiếm một con đường vãn hồi hòa bình cho Việt Nam?" 136 trong tổng số 138 dân biểu và nghị sĩ bỏ phiếu thuận, hai người không bỏ phiếu là TNS Trần Văn Lắm, Chủ Tịch Thượng Viện và Dân biểu Phạm Văn Út, Chủ Tịch Hạ Viện vì theo nội quy của Thượng và Hạ viện thì vị chủ tịch chỉ bỏ phiếu khi nào không đủ đa số mà thôi.
Như vậy, chỉ 24 tiếng đồng hồ sau quyết nghị ngày 26/4, Quốc Hội đã thông qua một quyết nghị mới minh định việc cả hai viện lập pháp chấp thuận việc TT Trần Văn Hương trao quyền lại cho ông Dương Văn Minh và có như vậy thì việc Cụ Trần Văn Hương trao quyền mới có vẻ như là có tính cách hợp hiến và hợp pháp và đó là điều mà Cụ trông đợi. Ông Trần Văn Đôn kể lại rằng tối hôm đó ông đến nhà Cụ Hương để thông báo việc xảy ra ở quốc hội thì Cụ nhờ ông Đôn nói lại với ông Dương Văn Minh là Cụ sẵn sàng trao quyền bất cứ lúc nào.
Khi ông Đôn ra về, Cụ Hương nói với ông Đôn rằng: "họ muốn có ông Minh thì có ông Minh!”. Theo ông Đôn thì sau đó ông Nguyễn Xuân Oánh và ông đến toà đại sứ Pháp và Mỹ thông báo việc quốc hội đã chấp thuận việc trao quyền cho ông Dương Văn Minh rồi cả hai người ghé đến nhà ông Minh. Ông Đôn nói với ông Minh là Cụ Hương sẵn sàng trao quyền bất cứ lúc nào thì ông Minh nói rằng ông ta sẽ nhậm chức vào lúc 5 giờ chiều ngày hôm sau, thứ Hai 28 tháng 4 năm 1975. (Đại úy Nguyễn Văn Nhựt, cựu tùy viên của TT Trần Văn Hương quả quyết với người viết rằng tối 27 tháng 4 cũng như tối hôm sau 28 tháng 4, Cụ Hương không hề tiếp ông Đôn tại Phủ Phó Tổng Thống trên đường Hiền Vương).
Sau khi Dương Văn Minh đã chính thức được quốc hội chấp thuận giao quyền tổng thống, khuya hôm đó, theo Frank Snepp, đại sứ Hoa Kỳ Martin mới chỉ thị cho Polgar, trùm CIA Sài Gòn, đi đón những nhân vật thân cận và trung thành với ông Thiệu đưa lên phi trường Tân Sơn Nhất rồi họ được một chuyến bay đặc biệt đưa sang Căn cứ Không Quân Clark tại Phi Luật Tân.
Trong số những hành khách trên
chuyến bay đặc biệt này có cựu thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn, cựu tổng trưởng Hoàng Đức
Nhã và cựu Thiếu tướng Tư lệnh Cảnh sát Nguyễn Khắc Bình. Frank Snepp cho biết
rằng Đại Sứ Graham Martin đã ra lệnh không cho một viên chức cao cấp nào trong
chính phủ được ra đi cho đến khi nào Đại Tướng Dương văn Minh được chính thức
giao quyền tổng thống. *180 Frank Snepp: sđd, trang 448
Cựu thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn nói với người viết rằng
ông ra đi vào tối 27 tháng 4 vì ông không muốn làm cái việc bàn giao chức vụ thủ
tướng cho Vũ Văn Mẫu. Trong cuốn hồi ký sau này, ông Nguyễn Bá Cẩn cũng xác nhận
rằng ông được toà đại sứ Hoa Kỳ đưa lên phi trường Tân Sơn Nhứt vào rạng sáng
ngày 28 tháng 4 và được đưa qua Căn cứ Clark Field của Hoa Kỳ tại Phi Luật Tân
trên một chiếc phi cơ vận tải C-13O cùng với Bác sĩ Phan Quang Đán và ông Hoàng
Đức Nhã.
Trong khi tại Sài Gòn, hai viện quốc hội đã thông qua quyết nghị cho phép TT Trần Văn Hương " trao quyền” cho ông cựu Đại tướng Dương Văn Minh để "điều đình" với Cộng sản thì tại Hà Nội, Võ Nguyên Giáp đã nhân danh Quân ủy Trung Ương gửi một chỉ thị mang số 113/QUTW ngày 27 tháng 4 năm 1975 cho các đơn vị Cộng sản tại miền Nam về "nhiệm vụ của các đơn vị quân đội quản lý thành phố Sài Gòn-Gia Định".
Chỉ thị này dài tất cả là 10 trang giấy nói về
việc "quản lý tốt", nắm vững đặc điểm của Sài Gòn-Gia Định và công
tác cụ thể trong việc quản lý. Võ Nguyên Giáp ra lệnh rằng chỉ thị này phải được
"quán triệt đầy đủ đến tân chi bộ và trung đội, tiểu đội và đựơc chấp hành
nghiêm túc". Trong bản chỉ thị này, không hề có câu nào nhắc đến việc có
thể thương lượng với Dương Văn Minh.
Nhân Vật Trần Văn Đôn
Nhân Vật Trần Văn Đôn
Trong cuốn " Việt Nam Nhân Chứng," tác giả Trần Văn Đôn cho biết thân phụ của ông là công dân Pháp và ông ra đời tại Bordeaux vào năm 1917, rồi theo cha trở về Việt Nam. Đến năm 1927, ông lại được cha cho sang Pháp "du học” lúc mới 10 tuổi. Sau hai năm, ông về thăm nhà và không muốn trở lại Pháp nên học ở Sài Gòn cùng lớp với Dương Văn Minh. Sau khi đậu tú tài, vào năm 1939 sang Pháp học về Cao Đẳng Thương Mại (Hautes etudes Commerciales) nhưng khi Đệ Nhị Thế chiến bùng nổ vào năm đó thì bị động viên vào quân đội với cấp bậc binh nhì.
Sang năm 194O được vào học trường sĩ quan trừ bi St. Maixent nhưng giữa chừng thì phải ra trận rồi bị Đức Quốc xã bắt.
Năm 1940 lại theo cha là Trung úy Y sĩ Trần Văn Đôn về Việt Nam và phục vụ trong quân đội Pháp. Năm 1944 ông được người Pháp gởi đi học sĩ quan tại Trường Đồi Thông, được người Pháp đọc là Trường Tông ở Phú Thọ và trở thành sĩ quan trong Quân Đội Pháp. Năm 1947 được làm sĩ quan tuỳ viên cho Thủ Tướng Nguyễn Văn Xuân rồi đến năm 1950 được sang Pháp theo học Trường Cao Đẳng Quốc Phòng trong 1 năm, về nước năm 1951 và được cử phụ trách Nha An Ninh Quân Đội.
Đến
năm 1954 được cử kiêm nhiệm thêm chức Tham Mưu Trưởng thay cho Đại tá Trần văn
Minh và ở lại chức này cho đến năm 1957. Năm 1955, Trần Văn Đôn từ bỏ quốc tịch
Pháp, đốt cấp hiệu đại tá của Pháp và được Thủ Tướng Ngô Đình Diệm thăng lên
thiếu tướng, sau đó được cử làm Tư Lệnh Quân Đoàn I rồi Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng
Quân Đội VNCH khi Đại Tướng Lê Văn Tỵ bị bệnh. Ông là một trong những người tổ
chức và lãnh đạo cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963 giết chết Tổng Thống
Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu nhưng đến ngày 30 tháng 1 năm 1964 thì bị
Tướng Nguyễn Khánh chỉnh lý và sau đó bị cho giải ngũ. Năm 1967 ông ứng cử vào
Thượng Nghị viện, năm 1971 ứng cử vào Hạ Nghị Viện và vào năm 1975 thì giữ chức
Phó Thủ Tướng kiêm Tổng trưởng Quốc Phòng.
Trong cuốn "Viêtnam, Qu’as Tu Fait De Tes Fils," tác giả Pierre Darcourt có viết về Trần Văn Đôn như sau: Trần Văn Đôn có dáng dấp của một tướng làm chính trị hơn là chỉ huy. Quen với các trò âm mưu trong hậu trường và với các trò xin xỏ trong chính phủ, sự nghiệp và thăng thưởng của hắn nhờ ở sự bợ đỡ hơn là thành tích. Trung úy Trần Văn Đôn bắt đầu leo lên hoạt động chính trị từ năm 1946 lẻo đẻo theo xách cặp cho tướng Nguyễn Văn Xuân, sau đó theo Trần Văn Hữu rồi đến Ngô Đình Diệm. Năm 1956 nhiều bạn người Pháp và bạn trong quân đội đã khinh miệt hắn vì để làm đẹp lòng TT Ngô Đình Diệm, hắn đã chủ tọa một buổi lễ đốt các tàn tích của thời thực dân Pháp thống trị” và Đôn đã "liệng cặp lon đại tá cùng với các huy chương mà quan thầy Pháp ban cho vào lửa. Chú ruột của Trần Văn Đôn giận quá và đã tặng hắn hai cái bạt tai nẫy lửa”.
(Ghi chú của người viết. Đại tá Trần Văn Đôn cùng với một số sĩ quan cao cấp hồi đó đã từ bỏ quốc tịch Pháp và làm lễ đốt lon của Pháp để lấy điểm với chính quyền Ngô Đình Diệm và ông Diệm đã thăng cấp cho Trần Văn Đôn lên thiếu tướng, chỉ có Đại tá Lê Văn Kim, em rể của Trần Văn Đôn, và Đại Tá Trần Văn Hổ không chịu bỏ quốc tịch Pháp để được lên tướng cho nên không được lòng ông Ngô Đình Diệm. Trong cuộc đảo chánh ngày 1-11-1963 Trung Tướng Lê Văn Kim được xem là đầu não, là linh hồn trong nhóm bộ ba Dương Văn Minh-Trần Văn Đôn-Lê Văn Kim và sau khi ông Diệm và ông Nhu bị giết, Tướng Lê Văn Kim được chỉ định làm ủy Viên Chính trị của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, một chức vụ tương đương với chức vụ Cố Vấn Chính trị tại Phủ Tổng Thống mà ông Ngô Đình Nhu nắm giữ trong suốt 9 năm ông Diệm nắm chính quyền.)
Sau này, tuy ông Diệm ban cho hắn danh vọng và cho hắn làm Quyền Tổng Tham Mưu
Trưởng Quân đội, hắn vẫn tham dự vào việc hạ bệ ông Diệm. Là bạn của tướng
Dương văn Minh, Đôn bỏ Minh để theo Kỳ. Nhờ Kỳ để ứng cử rồi lại bỏ Kỳ để theo
Thiệu. Làm trò ma-nớp để Thiệu sửa hiến pháp cho phép Thiệu ứng cử lần thứ ba,
Thiệu thưởng công bằng cách cho hắn giữ ghế phó thủ tướng.
“Trần Văn Đôn lo xa nên hay đi ngoại quốc, nhất là những nước có liên lạc thân hữu với Pháp. Tại Paris, hắn đã tìm gặp các quan thầy cũ để tỏ lòng hối hận vì đã dám đốt lon và huy chương của Pháp. Sau năm 1975, Trần Văn Đôn đã nhờ Tướng Loisillon của quân đội Pháp vận động xin với chính phủ Pháp cho hắn lãnh tiền hưu trí vì đã phục vụ nước Pháp trong 16 nắm trời (1940-1956) và hắn đã lãnh được sổ tiền là 130.OOO quan (khoảng 32,OOO đô-la). Đồng thời, Trần Văn Đôn cũng đã nhờ Jean Sainteny (cựu Cao ủy Pháp tại Bắc Việt và là người rất thân với Hồ Chí Minh) môi giới để hắn móc nối với những kẻ có liên lạc với Việt Cộng và Hà Nội. Trần Văn Đôn nổi tiếng là người có tài thông gian với nhiều phụ nữ Việt Nam có chồng nhưng mà vẫn giữ được liên lạc tốt với những người bị cắm sừng và giữ đựơc liên lạc với vợ của hắn”*181: Pierre Darcourt: "Vietnam, Q’as Tu Fait de Tes Fils." bản dịch của Phạm Kim Vinh trong Saigon, Người Việt, PO Box 486, Westminster, CA 92683, 1979, tr. 109-110)
Ông Trần Văn Đính nói rằng trong thời gian Cụ Trần Văn Hương làm thủ tướng cũng
như là Phó Tổng Thống, có nhiều người đã yêu cầu Cụ đưa ông Đôn lên giữ một vài chức vụ quan trọng nhưng
Cụ nhất mực từ chối, Cụ cho rằng ông Đôn chỉ là một người "opportunist”
(cơ hội chủ nghĩa, gió chiều nào theo chiều đó), đời sống riêng tư "thiếu
đạo đức", không xứng đáng để giữ một chức vụ nào trong guồng máy lãnh đạo
quốc gia.*182: phỏng vấn ông Trần Văn Đính, thứ nam của Cụ Trần Văn Hương tại California 2002.
Người viết có hỏi cựu Đại úy Nguyễn Văn Nhựt sĩ quan tùy viên của Cụ Trần Văn Hương cho đến ngày cuối cùng, về tin đồn nói rằng vào cuối tháng 4 năm 1975, Cụ Hương dự định mời ông Trần Văn Đôn làm thủ tướng thì ông Nhựt trả lời rằng " tôi ở bên cạnh Cụ gần như là suốt ngày đêm trong thời gian đó và tôi không hề nghe Cụ nói với ai về việc mời ông Đôn làm thủ tướng. Riêng về ông Đôn thì Cụ có nói như vầy: “Cái ông đó thì tôi không bao giờ mời làm một chức vụ gì cả."
Để có thể hiểu thêm về nhân vật này, có một câu chuyện được chính ông Trần văn Đôn kể lại cho bạn bè của ông và trong giới chính trị cũng như các vị tướng lãnh có nhiều người biết chuyện này. Người kể lại câu chuyện này với người viết là một nhân vật có nhiều liên hệ với ông Đôn từ Sài gòn cũng như sau năm 1975. Theo lời ông Đôn kể lại thì vào khoảng thập niên 1980, ông Đôn bị một chứng bệnh gì đó và được vào điều trị trong bệnh viện Val De Grace, tức là quân y viện lớn nhất của quân đội Pháp ở gần Paris và ông đã kết thân với một vị bác sĩ Quân Y người Pháp phục vụ tại bệnh viện này. Ông Đôn vốn là công dân Pháp trước năm 1955, là cựu sĩ quan trong quân đội Pháp cho nên đã được hưởng quyền lợi đặc biệt này.
Trong thời gian dưỡng bệnh ở đây, ông Đôn hàng ngày đi dạo và thường gặp một người Việt Nam khá lớn tuổi cũng đi dạo trong sân bệnh viện với người theo hầu và mỗi lần gặp thì bao giờ ông Đôn cũng cúi đầu chào. Nhiều lần như vậy thì người bệnh nhân lớn tuổi đó cũng chào đáp lễ và có lần ông ta dừng lại chuyện trò thăm hỏi với ông Đôn. Người đó nghe giọng nói của ông Đôn thì biết là người Miền Nam, ông ta hỏi tên tuổi và sau khi ông Đôn tự giới thiệu thì ông già đó nói "à, cái tên đó thì tôi cũng có nghe"'
Ông già đó là Lê Đức Thọ, lúc đó đang được chính phủ Pháp cho sang chữa bệnh tại Paris.
Những lần sau, Lê Đức Thọ gặp ông Đôn cùng đi với vị bác sĩ người Pháp thì cũng chuyện trò vui vẻ và có lần ông ta nói với ông Đôn là nên về thăm quê hương vì "đất nước đang cần bàn tay xây dựng của Việt kiều". Vị bác sĩ người Pháp, cũng là y sĩ điều trị cho Lê Đức Thọ, nói với Lê Đức Thọ rằng cả hai người muốn cùng đi chung sang thăm Việt Nam một chuyến thì ông Thọ hứa là sẽ ra lệnh cho sứ quán lo thủ tục cấp chiếu khán khẩn cấp cho hai người. Vài ngày sau, có nhân viên của sứ quán Cộng sản đến bệnh viện và đưa chiếu khán nhập cảnh Việt Nam vô hạn định cho vị bác sĩ người Pháp, ông Đôn bèn hỏi về trường hợp của ông. Tên nhân viên sứ quán hỏi tên ông Đôn và sau khi được ông Đôn cho biết tên thì y trả lời bằng một giọng lạnh lùng "trường hợp của anh thì phải theo thủ tục thông thường "
Nhận định về phúc trình của Trần Văn Đôn tại Lưỡng viện Quốc hội ngày 27 tháng 4 năm 1975, Jean Lartéguy đã viết trong L'Adieu à Saigon rằng “tướng Đôn thì chẳng có gì để mất mát nhiều. Sinh tại tỉnh Bordeaux, ông là dân Tây. Và mặc dù ông ta đã đốt giấy thông hành và đốt cặp lon đại tá của quân đội Pháp để làm đẹp lòng ông Ngô Đình Diệm và bà Nhu, nhưng ông ta biết là không thể mất cái quốc tịch Pháp. Những trò hề!*183 Jean Lartéguy: L'Adieu À Saigon, bản dịch Saigon, trang 17
Pierre Darcourt cho biết về phản ứng của một số dân cử về báo cáo của ông Đôn: “Trần Văn Đôn đã dệt ra một bức tranh vô cùng bi thảm. Chỉ vài ngày, có thể chỉ vài giờ nữa, Sài gòn có thể bị đại bác 130 ly của Cộng sản tàn phá. Vậy phải thương thuyết ngay để có ngừng bắn càng sớm càng tốt". Darcourt nói thêm rằng: “ngày sau đó, các dân biểu nghị sĩ trẻ đã thốt ra những lời giận dữ và khinh bỉ: "Đồ bán nước! Quân đầu hàng! Tướng phòng ngủ!" Darcourt cho biết là Bác sĩ Thức, trưởng khối Cộng Hoà đã tiến về phiá Đôn và hét lên nhiều lần: “đồ phản quốc! Phản quốc! Mầy chỉ là một tên phản quốc! Mày đáng bị xử bắn!' *184 Pierre Darcourt: sđd, bản dịch "Saigon," trang 113
Các Vị nghị sĩ cùng dân biểu trong hai viện quốc hội lúc đó đều không biết rằng
ông Trần Văn Đôn không còn đủ tư cách để làm việc thuyết trình này vì ông Đôn
lúc đó không còn là công dân Việt Nam nữa, ông ta đã lấy lại quốc tịch Pháp, đã
lấy thông hành của nước Pháp vào buổi trưa ngày hôm đó và thực ra thì dù ông ta
đã phục vụ với tư cách là tướng lãnh, là nghị sĩ, là dân biểu, là phó thủ tướng
v v của Việt Nam Cộng Hoà trong hơn 3 thập niên nhưng ông ta không hề mất quốc
tịch Pháp vì thân phụ của ông ta là một người công dân Pháp và ông ta đã sinh
trưởng tại Pháp.
Pierre Darcourt tiết lộ rằng: "trước đó vài giờ, giữ cho trọn nghiã bầy tôi với nước Pháp, Đôn đã tới từ biệt đại sứ Pháp Mérillon và để lãnh giấy thông hành quốc tịch Pháp"
Theo Jean Lartéguy trong L'Adieu À Saigon, khi ông ta đến dùng cơm trưa với Đại sứ Mérillon thì ông đại sứ thò đầu qua cửa sổ nói với ông rằng "xin lỗi, chờ tôi một lát vì tôi đang tiếp một thân hữu. Ông ấy đến từ biệt tôi" Jean Lartéguy nói rằng "Đó là Trần Văn Đôn. Ngày hôm qua (26-4-75), ông ta còn là Phó Thủ Tướng kiêm Tổng trưởng Quốc Phòng và đã có lúc nghĩ tới việc nắm lấy ghế thủ tướng, nếu không nắm được cái ghế quốc trưởng. Hôm trước, Đôn hoạt động mạnh để đẩy Hương khỏi cái ghế tổng thống vì Đôn dệt ra một tình hình quân sự bi thảm dưới sự thật. Trong những ngày gần đây, Đôn là bầy tôi trung thành của chính sách Pháp. Người ta bảo tôi rằng nhiều tháng trước đây, Đôn đựơc toà đại sứ Pháp nghe theo về rất nhiều điều. Tướng Đôn bảnh trai, xuất sắc, nhẹ nhàng đã tới toà đại sứ Pháp để lấy sổ thông hành (passport) của nước Pháp. Phải chăng ông ta sanh tại tỉnh Bordeaux?*185
Như vậy thì vào ngày 27 tháng 4 năm 1975, cựu Trung tướng Trần Văn Đôn đã có thông hành của Pháp, điều đó có nghĩa là ông ta đã hồi tịch trước đó hoặc là ông ta không hề mất cái quốc tịch Pháp “thổ sinh" như Jean Lartéguy đã nói và một công dân nước Pháp như ông ta tại sao lại được mời ra thuyết trình về an ninh quốc phòng tại lưỡng viện quốc hội của nước VNCH?
VietNam1975
◾◾◾◾◾
◾◾◾◾◾
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét