10-08-2013
Có bao giờ có con cừu nào – tức là giới hoạt động dân chủ và nhân quyền đang sống tại Việt Nam – lại có thể dại dột tới mức độ XIN vui vẻ thảo luận với một con chó sói miệng mồm đầy máu tanh – tức là ĐCSVN – nào anh đừng ăn thịt tôi vì tôi tha tội cho anh – tức là “hòa hợp hòa giải” với chính thể – mà không bị ăn tuơi nuốt sống, hay không?
“Ngay trước mắt, giới hoạt động dân chủ và nhân quyền ở Việt
Nam đã có thể bắt đầu nghĩ đến một khả năng “hòa hợp hòa giải” với chính thể, để
cùng giữ cho đất nước này tránh thoát khúc quanh đầy tai biến trong những năm
tháng tới.”(1)
Dù rất kính trọng nhà báo Phạm Chí Dũng, một blogger có
thành tích đã từng bị công an bắt, tôi vẫn nghĩ ý kiến ông đã đề xuất vừa nông
cạn, vừa nông nổi.
Nông cạn, và do đó không có tính thuyết phục, bởi vì có lúc
nào người Việt nước Việt không sống qua hay ở trong “những khúc quanh đầy tai
biến” kể từ ngày Đảng Cọng Sản Việt Nam ra đời ?
- Truy lùng và thủ tiêu hàng ngàn người cộng sản không theo học thuyết Cọng Sản Quốc Tế của Stalin vào những thập
niên đầu của đảng? Check!
- Truy lùng và thủ tiêu hàng trăm ngàn
người quốc gia không cọng sản trong thời kỳ 1945-1954? Check!
- Đấu tố
và giết hại trên dưới 1 triệu nông dân duới sự chỉ đạo trực tiếp của các “cố vấn
Trung Quốc vỉ đại” vào thời khoản 1954-1956 (và trước đó nửa)?Check!
- Ký
công hàm Phạm Văn Đồng giao khoán Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc vào năm
1957? Check!
-Ngửa tay nhận hàng tỹ USD mổi năm từ khối cọng sản
và nướng trên 4 triệu người Việt trong thời khoản 1960-1975 để tiến hành chiến
tranh “giải phóng Miền Nam”? Check!
- Cải tạo tư sản để thu gom tiền của
vàng bạc, đồng thời xua dân miền Nam về các vùng kinh tế mới để “cạp đất mà
ăn”, và đẩy hàng triệu người Việt và người Việt gốc Hoa ra biển làm mồi cho cá
vào những năm 1975-1984? Check!
- Xâm lăng Cam Bu Chia (1978-1979) kinh động
tới quyền lợi Trung Quốc gây nên chiến tranh biên giới Việt-Trung (1979-1984) với
hậu quả là ĐCSVN phải dập đầu năn nỉ xin nộp hàng chục ngàn cây số vuông ở vùng
biên giới và hơn nửa Biển Đông để cầu hoà với Trung Quốc tạo nên nhựng hệ lụy rất
bi đát và đầy tai biến cho những người Việt đang sinh sống tại các vùng đó?Check!
- Thi
hành “Đời Mới/Đổi Mới” theo đuôi quan thầy mới, Trung Quốc, sau khi quan thầy củ,
Liên Sô, sụp đổ, để vơ vét thêm tiền của và đào sâu thêm khoảng cách giửa người
dân vô sản đã nghèo ngày càng trắng tay nghèo hơn các và đảng viên tư bản đỏ với
tài sản ngày càng gia tăng và nay đã lên đến mức hàng chục tỹ USD (1995-bây giờ)? Check!
- Quản
lý kinh tế theo nguyên lý công ty nhà nước lổ lả thì…xóa nợ – như Vinashin –
còn các công ty tư nhân thì chỉ là con mồi để các đảng viên quan chức tham
nhũng vơ vét truy thu tận thu và rốt ráo, “tiếp thu” (1995-bây giờ)? Check!
- Mở
rộng của cho Trung Quốc tự do khai thác tài nguyên như bauxite ở Tây Nguyên và
cây rừng quý hiếm ở vùng biên giới cực Bắc của mẹ Việt Nam (1984-bây giờ)? Check!
- Bỏ
ngỏ cả nước từ ải Nam Quan đến mủi Cá Mâu để cho người Trung Quốc tự do đi lại
và an cư lập nghiệp tại bất cứ nơi nào họ muốn, đồng thời không dám cho công an
– vốn rất thích đạp vào mặt dân lành dám biểu tình chống Trung Quốc cưỡng chiếm
Trường Sa Hoàng Sa – kiểm soát hay quản lý (1984-bây giờ)? Check!
- Họp
với các nhà lảnh đạo ĐCSTrung Quốc để dâng nước Việt cho Trung Quốc (2013)? Check!
- Và vân vân và vân vân…
- Và vân vân và vân vân…
Nói cho cùng, không có một ngày nào dưới chế độ cọng sản mà
người dân Việt, trong quá khứ, trong hiện tại, và do đó, trong tương lai,
không sống trong những tháng ngày, những phút giây, những “khúc quanh đầy tai
biến.” Việc hù dọa 90 triệu người Việt đã và đang sống qua những “khúc quanh đầy
tai biến” nhằm thúc đẩy và kêu gọi “giới hoạt động dân chủ và nhân quyền ở Việt
Nam bắt đầu nghĩ đến một khả năng “hòa hợp hòa giải” với chính thể” xem ra có vẻ
không cần thiết và thực tế cho lắm.
Nông nổi, và do đó vô trách nhiệm, bởi vì ai lại đi khuyên,
và/vì có bao giờ có con cừu nào – tức là giới hoạt động dân chủ và nhân quyền
đang sống tại Việt Nam – lại có thể dại dột tới mức độ XIN vui vẻ thảo luận
với một con chó sói miệng mồm đầy máu tanh – tức là ĐCSVN – nào anh đừng
ăn thịt tôi vì tôi tha tội cho anh – tức là “hòa hợp hòa giải” với chính thể –
mà không bị ăn tuơi nuốt sống, hay không? Điều này, thật sự, không
cần phải lý giải. Đã có trên 150 triệu người trên mọi nẻo đường của địa cầu này
chết oan như là nạn nhân của chủ nghĩa cọng sản từ năm 1917 để chứng minh cho
chân lý đó.
Tuy thế, tôi có thể chấp nhận là ông Phạm Chí Dũng đã chỉ rất
từ tốn đề nghị là “giới hoạt động dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam đã có
thể bắt đầu nghĩ đến một khả năng “hòa hợp hòa giải” với chính thể, thế
thôi. Sự thật là nếu “chỉ bắt đầu nghĩ đến”, tức là nghĩ đến chứ chưa có làm gì
cụ thể, cũng có nghĩa là đã bước một chân vào một cầu tuột đầy mỡ, và một khi
đã buớc vào thì chỉ có thế tuột xuống không phanh mà thôi.
Tại sao?
Tại vì, khi làm như thế, khi bắt đầu nghĩ đến một khả
năng “hòa hợp hòa giải” với chính thể, người hoạt động dân chủ và nhân quyền
ở Việt Nam đã thay khung tư duy của mình bằng khung tư duy của chính thể, và sẽ
bắt đầu nhìn vụ việc qua lăng kính lợi hay hại cho chính thể, thay vì nhìn vụ
việc qua lăng kính nhu cầu tự do, dân chủ và nhân quyền vô cùng bức thiết của
90 triệu người Việt.
Cho dù có sự chồng chéo giửa quyền lợi của chính thể và nhu
cầu tự do, dân chủ và nhân quyền của người Việt, việc trình bày, biện minh, và
thi hành các điều chồng chéo đó phải được tiến hành và trình bày cho người dân
Việt, và cả toàn thế giới biết một cách minh bạch qua khung tư duy của các người
hoạt động dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam. Khung tư duy đó phải được xây dựng
trên nền tảng các đòi hỏi bức thiết về tự do, dân chủ và nhân quyền của tập thể
90 triệu người Việt, và các giá trị nhân bản muôn đời của nhân loại đượm màu sắc
Việt Nam. Khung tư duy đó không thể nào là nghị quyết này hay nghị quyết nọ,
hay những lời rêu rao đã thi hành được điều này hay điều nọ của các nghị quyết
trên, xuất phát từ một ĐCSVN đang tìm mọi cách cũng cố một chế độ toàn trị
trong bối cảnh “theo Mỹ thì mất đảng, theo Tàu thì mất nước.”
Nói khác đi hơn, khung tư tuy của một chính thể mà Vaclav
Havel gọi là nhà nước “hậu toàn trị” như nhà nước Việt Nam đương đại chỉ là một
khung tư duy “được xây dựng trên những lời dối trá”.(2) Dối trá chỉ có thể
sản sinh dối trá và do đó không thể là một khung tu duy tốt cho bất cứ ai đang
hoạt động cho dân chủ và nhân quyền tại Việt Nam. Sẽ là một thảm kịch lớn cho
người Việt nếu những gì ông Phạm Chí Dũng đề xuất được người ta nghe theo.
Và vì thế, xin hảy cùng đọc lại một lời khuyên tuy đã xưa –
viết ra vào cuối thập niên 70 của thế kỷ trước – cùa một người đã khuất
núi, nhưng vẫn còn tính thời sự, vẫn còn rất hực lửa cho những ai biết nhìn vào
phía sau các con chử: lửa của một con tim yêu tự do vô vàn và luôn luôn sẵn
sàng trả bất cứ giá nào cho tự do:
“Các hệ thống cấu trúc và chính trị mà cuộc sống khám phá ra
cho chính mình sẽ luôn là – ít nhất trong thời gian sắp tới – hạn chế, nửa vời,
không thỏa đáng và bị ô nhiễm bởi những tiểu xảo gây suy yếu. Nó tất yếu phải
thế, và chúng ta phải lường trước điều này và không bị nó làm nhụt chí. Điều vô
cùng quan trọng là cái nội dung chính – cuộc đấu tranh hàng ngày, tẻ nhạt và
không bao giờ dứt của nhân loại để sống tự do hơn, trung thực hơn và trong danh
dự thầm lặng – không áp đặt bất cứ một giới hạn nào lên nó, không bao giờ thiếu
nhiệt tình, không nhất quán, không bao giờ bẫy mình vào những thủ thuật chính
trị, đầu cơ trên những kết quả của hành động của mình, hay thỏa mãn những mơ ước
hão huyền về tương lai. Sự thuần khiết của cuộc đấu tranh này sẽ là sự đảm bảo
tốt nhất cho những kết quả tối ưu khi nó đi đến những tương tác thực sự với các
cấu trúc hậu toàn trị.”(3)
Chấn Minh
August 2013
___________________________
Chú Thích
1. Phạm Chí Dũng, 2013, “HR 1897: Nước cờ đầu tiên của thế
“triệt buộc”. Internet: http://www.boxitvn.net/bai/18198
2, 3. Václav Havel, 1978, “Quyền lực của Không Quyền Lực” 5
kì, Khải Minh dịch và giới thiệu, Lâm Yến hiệu đính. Tủ Sách Talawas. Internet:http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=6390&rb=08
Độc-Lập hay Tay sai?
Trả lờiXóaTôi năm nay 71 tuổi, đang sống ở nước ngoài, xin đóng góp vào loạt bài của Đặng Chí Hùng về cái gọi là độc lập của HCM.
Trải qua dòng lịch sử nước nhà, các vua của đất nước ta, ai cũng phải chịu nhục là quỳ gối để tiếp nhận chiếu chỉ của vua Tàu phong vương cho mình. Sau đó sứ-gỉa Tàu về nước. Vua quan ta họp nhau bàn luận, tổ chức việc cai trị ra sao thì không hề phải thông báo, chứ chẳng có chuyện phải xin phép vua Tàu. Đó là sự thực được trình bày rõ ràng qua các sách sử của nước nhà.
1/ Trái lại HCM phải trình cho Liên-Xô (LX) chương trình “Cải cách ruộng đất”. Một chương trình hoàn toàn thuộc về nội trị của đất nước! Trước khi thực hiện thì gởi người qua Tàu để học cách làm. Cứ tạm coi là đi tu nghiệp về chuyên môn, có thể chấp nhận được. Nhưng trong khi thực hiện thì có các cố vấn Tàu và phải xin phép. Việc bà Cát Hanh Long bị giết vì HCM không thể xin được là một bằng cớ về việc làm tay sai, không có thực quyền.
2/ Trong khi đảng cộng sản VN họp hành để thảo luận về các chương trình làm việc, một việc hoàn toàn thuộc về nội bộ của đảng minh. HCM đã mời đại diện Tàu tham dự (xin ai biết rõ việc này bổ túc dùm). Đây là một bằng chứng khác về việc làm tay sai.
3/ Thực chất của cái gọi là “Nghĩa vụ quốc tế” chính là làm tay sai cho LX. Khi thế giới phân chia thành hai khối Tư-bản và Cộng-Sản. LX muốn bành trướng vùng ảnh hưởng của mình, thì chỉ thị cho đàn em cung cấp người, anh cả chỉ cung cấp vũ-khí.