TNM: Tìm hiểu và ôn lại lịch sử không
phải để than khóc, tiếc nuối ... mà để biết rõ những xảo thuật chính trị, những
khúc mắc thất bại trong quá khứ đặng chúng ta có thể tránh những lỗi lầm của người
đi trước, kiên trì nêu cao chính nghĩa, tiếp nối hào khí cha ông trong việc cứu
nước và giữ nước.
Trong một cuốn sách được dịch ra tiếng Việt và xuất bản vào năm 2000 tại California, Tiến Sĩ Stephen B. Young đã dựa vào những mối liên hệ giữa ông với ông Ellsworth Bunker, cựu Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam từ năm l967 cho đến 1973 cũng như là những tài liệu riêng mà ông Bunker để lại và viết thành một cuốn sách mang tựa đề Cuộc Chiến Thắng Bị Bỏ Lỡ nói về những diễn biến chính trị tại Miền Nam Việt Nam.
Tiến Sĩ Stephen B. Young cho biết rằng lúc còn sinh tiền, cựu Đại Sứ Ellsworth Bunker đã tiết lộ cho ông biết rằng vào tháng giêng năm 1967, Tổng Thống Lyndon Johnson đã bổ nhiệm ông Bunker làm Đại Sứ Koa Kỳ tại Saigon với một niệm vụ bí mật: Chuẩn bị việc Hoa Kỳ rút quân chiến đấu ra khỏi Miền Nam Việt Nam.
Stephen Young nói rằng khi ông hỏi Đại Sứ Bunker tại sao ông lại được Tổng Thống Johnson chọn làm Đại Sứ tại Saigon thì ông Bunker đã cho ông biết rằng đó là tại vì nước Cộng Hòa Doninican.
Vào mùa Xuân năm 1965, Tổng Thống Johnson đã gửi 25.000 quân Hoa Kỳ sang Cộng Hòa Dominican để ổn định tình hình sau khi một nhóm Quân Nhân thân Fidel Castro, Chủ Tịch nước cộng sản Cuba, sắp sửa cướp được chính quyền. Gởi quân sang thì dễ nhưng triệt thoái quân đội trở về mà phe thân cộng sản không nắm được chính quyền mới là chuyện rất khó. Đại Sứ Hoa Kỳ tại Dominican Republic lúc đó là Ellsworth Bunker đã thực hiện được việc khó khăn đó: Phe thân Castro bị thua phe dân chủ, tình hình được ổn định và Quân Đội Hoa Kỳ triệt thoái về nước.
Ông Stephen Young nói rằng: Tương tự như vậy, năm 1967, Tổng Thống Jobnson muốn rút ra khỏi cuộc chiến tranh Đông Dương và yêu cầu tìm ra giải pháp.
Jobnson tránh xác định và tập trung nỗ lực vào công việc chấm dút chiến tranh. Tổng Thống Jobnson chỉ muốn ông Bunker hoàn tất sứ mạng của Hoa Kỳ tại Miền Nam Việt Nam. Bắt đầu là rút quân chiến đấu Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam. Để đáp ứng nhu cầu do cuộc chiến đòi hỏi, ưu tiên hàng đầu là phải tăng cường quân số và quấn luyện Quân Đội Miền Nam Việt Nam để họ có thể chịu trách nhiệm và thay thế những nơi mà Quân Đội Hoa Kỳ sẽ triệt thoái Khi Quân Đội Miền Nam lớn mạnh và đủ khả năng, chừng ấy mới bắt đầu rút các đơn vị chiến đấu Hoa Kỳ. [Stephen B.Young: Cuộc Chiến Thắng Bị Bỏ Lỡ, Nguyễn Vạn Hùng dịch, Thời Luận, Califomia xuất bản 2001. Trang 53-55].
Kissinger: Hoa Kỳ Sẽ Rút Khỏi Việt Nam và “Sẽ Không Bao Giờ Trở Lại”
Vào năm 1968, Tổng Thống Johnson không ra tái tranh cử và ông Richard Nixon lên nhậm chức Tổng Thống Hoa Kỳ vào tháng Giêng năm 1969. Tân Tổng Thống Nixon được mọi người xem như là một nhân vật chống cộng hàng đầu, tuy nhiên ít có người biết là ông ta cũng theo đuổi đường lối về việc giải kết chiến tranh Việt Nam mà Tổng Thống Johnson đã vạch hồi năm 1967 và vẫn giữ ông Ellsworth Bunker làm Đại Sứ Hoa Kỳ tại Saigon cho đến sau Hiệp Định Paris vào năm 1973.
Mặt khác cũng có rất ít người, kể cả người Mỹ, lại biết được rằng 2 năm trước khi ký Hiệp Định Paris, chính phủ Nixon đã tiết lộ cho Thủ Tướng Trung Cộng Chu Ân Lai biết rằng Hoa Kỳ sẽ bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa và sau khi Quân Đội Mỹ triệt thoái thì sẽ không bao giờ trở lại Việt Nam.
Trong cuốn sách The Vietnam War Files: Uncovering the Secret History of Nixon-Era Strategy (Hồ Sơ chiến Tranh Việt Nam: Tiết Lộ những Bí mật Lịch Sử Về chiến Lược Thời Đại Nixon) xuất bản vào năm 2004, dựa vào những hồ sơ “tối mật” mới được giải mật, tác giả Jeffrey Kimball đã cho biết rằng từ tháng 7 năm 1971, Tiến Sĩ Henry Kissinger, Cố Vấn về An Ninh Quốc Gia của Tổng Thống Hoa Kỳ, đã thông báo cho Trung Cộng biết rằng Hoa Kỳ sẽ không lưu giữ lực lượng quân sự nào tại Nam Việt Nam để bảo vệ cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
Trong trang 5, phần “Indochina” của “tài liệu hướng dẫn” (briefing book) được Ban Tham Mưu của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia soạn thảo để Tiến Sĩ Kissinger thảo luận với Thủ Tướng Chu Ân Lai vào hai ngày 9 và 10 tháng 7 năm 1971, Tiến Sĩ Kissinger đã nói với Thủ Tướng Trung Hoa cộng sản Chu Ân Lai rằng:
“Nhân danh Tổng Thống Nixon, tôi muốn đảm bảo với Thủ Tướng rằng Hoa Kỳ sẵn sàng chuẩn bị một sự giàn xếp mà trong đó mọi diễn biến về chính trị tại Miền Nam Việt Nam sẽ do người Việt Nam quyết định với nhau. Chúng tôi sẵn sàng triệt thoái các lực lượng quân sự của Hoa Kỳ qua nhưng 4 lịch trình được ấn định rõ ràng và để cho những “thực tế khách quan” (objective realities) hoạch định cho tương lai chính trị. “Chúng tôi muốn có một khoảng thời gian vừa phải (decent interual.) Chúng tôi xin bảo đảm với Thủ Tướng như vậy.
Nếu chính phủ Việt Nam muốn tự quyết định thay đổi chính phủ hiện tại của họ thì chúng tôi sẽ chấp nhận điều đó. Nhưng mà chúng tôi sẽ không quyết định về việc đó cho họ.
Như Tổng Thống Nixon đã nhiều lần tuyên bố, chúng tôi tin tưởng rằng những nguyên tắc sau đây sẽ là những điểm quan trọng hàng đầu cho một sự giàn xếp chính trị tại chính trị Miền Nam Việt Nam:
- Một giải pháp chính trị phải phản ảnh nguyện vọng của nhân dân Miền Nam Việt Nam và cho phép họ được quyết định tương lai của họ mà không có sự can thiệp từ bên ngoài.
- Một giải pháp chính trị hợp lý phải phản ảnh những mối liên hệ hiện nay giữa các lực lượng chính trị tại Miền Nam Việt Nam
- Chúng tôi sẽ tôn trọng những kết quả của diễn tiến chính trị đã đươc thỏa thuận.
Một điều cần phải chú ý là khi người Mỹ nói về các lực lượng chính trị tại Miền Nam có nghĩa là các lực lượng chính trị hoạt động hợp pháp tại Việt Nam Cộng Hòa, các lực lượng của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và cả các lực lượng từ Bắc Việt xâm nhập vào cùng với mấy trăm ngàn bộ đội Bắc Việt, điều đó có nghĩa là ngay từ tháng 7 năm l971, chính sách của Tổng Thống Nixon là triệt thoái Quân Đội Mỹ mà không nhất quyết đòi hỏi cộng sản Bắc Việt cũng phải rút quân đội về Bắc như lập trường đang được đòi hỏi tại cuộc hòa đàm ở Paris.
Trong một phóng ảnh chụp lại trang số 5 của bản ‘ briefing book” này, bên lề phía tay trái, Tiến Sĩ Kissinger có ghi thêm với chính thủ bút của ông như sau: “Chúng tôi muốn có một khoảng thời gian vừa phải”. Chúng tôi cam kết với Thủ Tướng như vậy (We want a decent interual. You have our assurance.)
Tác giả Jeffrey Kimbal cho biết thêm rằng:
“khi Kissinger và Chu Ân Lai thảo luận về vấn đề Việt Nam trong hai ngày 9 và 10 tháng 7 năm 1971, Kissinger đưa ra “chiến lược liên kết” (stratagem of linkage) hay là “củ cà-rốt và cây gậy” nhưng ông ta cũng nói rõ giải pháp “một thời gian vừa phải” (decent interval solution) dành cho tương lai của Miền Nam Việt Nam. Chẳng hạn như Kissinger đã nói với Chu Ân Lai rằng: Điều mà chúng tôi cần đòi hỏi là một giai đoạn chuyển tiếp (transition period) giữa sự triệt thoái (của Quân Đội Hoa Kỳ) và mọi diễn biến về chính trị (political evolution.)
Chu Ân Lai hỏi Kissinger: Vấn đề triệt thoái toàn thể Quân Lực Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam có thể nào hoàn tất được chậm nhất là vào năm tới (1972) hay không? Ông Cố Vấn vừa mới rời Saigon ?
Kissinger: Tôi đã đề nghị như sau nhân danh Tổng Thống Richard Nixon: Thứ nhất, chúng tôi sẽ ấn định ngày tháng triệt thoái ra khỏi Việt Nam.
Chu Ân Lai: Ngày tháng triệt thoái toàn diện ?
Kissinger: Đúng vậy. Thứ hai, như là một phần của sự giàn xếp, cần phải có một cuộc ngưng bắn trên toàn lãnh thổ Đông Dương. Thứ ba, cần phải có sự trao trả tất cả mọi tù binh. Thứ tư, cần phải tôn trọng Hiệp Định Genève.
Nhân danh Tổng Thống Nixon, tôi muốn thưa với Thủ Tướng một cách vô cùng long trọng rằng trước hết, chúng tôi chuẩn bị triệt thoái toàn diện ra khỏi Đông Dương và đưa ra một hạn kỳ nhất định, nếu có một cuộc ngừng bắn và trao trả tù binh. Thứ hai, chúng tôi sẽ để cho giải giải pháp chính trị dành cho Việt Nam tự diễn tiến và dành cho người Việt Nam giải quyết với nhau mà thôi.
Chúng tôi thừa nhận rằng một giải pháp phải phản ảnh nguyện vọng của nhân dân Miền Nam Việt Nam và cho phép họ tự quyết định tương lai của chính họ mà không có một sự can thiệp nào cả. Chúng tôi sẽ không bao giờ trở lại (reenter) Việt Nam và sẽ tôn trọng mọi diễn tiến chính trị.
Tổng Thống Nixon đã chỉ thị cho tôi nói với Thủ Tướng rằng Hoa Kỳ tin rằng đã đến lúc cần phải có hòa bình. Dĩ nhiên là chúng tôi không thể nói với Thủ Tướng là Trung Quốc phải làm gì, tuy nhiên chúng tôi tin tưởng rằng cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc thì sẽ thúc đẩy việc cải thiện mối bang giao giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Trong bất cứ tình huống nào, điều mà chúng tôi mong ước là nhân dân Đông Dương có thể quyết định tương lai của họ mà không cần phải có chiến tranh.
Lập trường của chúng tôi là Hoa Kỳ không nhất định ủng hộ việc duy trì “một chính phủ nào đó” (a particular government) tại Miền Nam Việt Nam. Chúng tôi sẵn sàng chấp nhận những nghĩa vụ về hạn chế sự ủng hộ của chúng tôi đối với chính phủ đó sau khi nền hòa bình được thiết lập và chúng tôi cũng ấn định lại mối liên lạc mà chúng tôi sẽ duy trì với chính phủ đó sau khi hòa bình trở lại.
Điều mà chúng tôi không thể làm được là tham dự vào việc lật đổ những người mà trước đây chúng tôi là đồng minh của bọ, bất cứ cái nguồn gốc của sự đồng minh đó như thế nào.
Nếu mà cái chính phủ đó không được lòng dân như quí vị đã nghĩ thì một khi mà chúng tôi triệt thoái ra khỏi Việt Nam càng sớm chừng nào thì cái chính phủ đó càng sớm bị lật đổ chừng đó. Và nếu mà các chính phủ đó bị lật đổ sau khi chúng tôi rút lui thì chúng tôi sẽ không hề can thiệp.
Điều chúng tôi cần là phải có một giai đoạn chuyển tiếp gữa việc triệt thoái Quân Đội mà các diễn tiến chính trị. Không phải chúng tôi cần giai đoạn nầy để chúng tôi trở lại một lần nữa, nhưng chúng tôi cần giai đoạn đó là để cho nhân dân Việt Nam và các phần khác ở Đông Dương có quyền đinh đoạt lấy số phận của họ.
Ngay cả trong giai đoạn chuyển tiếp, chúng tôi sẵn sàng chấp nhận những hạn chế về những loại viện trợ nào có thể cung cấp cho các nước tại Đông Dương. Và nếu mà không có quốc gia nào tại Đông Dương sẵn sàn nhận viện trợ quân sự từ bên ngoài thì chúng tôi sẵn sang cứu xét đến việc loại bỏ hẳn các viện trợ về quân sự.
Tôi đã nói với Thủ Tướng ngày hôm qua, và tôi xin nói lại điều đó thêm một lần nữa là nếu sau khi Hoa Kỳ hoàn toàn rút Quân Đội ra khỏi Việt Nam mà nhân dân các nước tại Đông Dương thay đổi chính phủ của họ thì Hoa Kỳ sẽ không bao giờ can thiệp.
Hoa Kỳ sẽ tôn trọng sự quyết tâm và nguyện vọng của nhân dân Đông Dương. Thủ Tướng có nói đến việc hằng triệu người mà Bắc Việt sẵn sàng hy sinh. Tôi xin thưa với Thủ Tướng không cần thiết phải hy sinh thêm một triệu người.
Hoa Kỳ sẵn sàng đạt đến hòa bình nhanh chóng nếu mà nền hòa bình đó được thỏa thuận trong khuôn khổ mà tôi vừa đề cập đến. Những nếu mà Thủ Tướng có đề nghị nào khác về giai đoạn chuyển tiếp nào hoặc là Hà Nội có một đề nghị nào khác, chúng tôi sẵn sàng cứu xét.
Chu Ân Lai trả lời: Chúng tôi ủng hộ đề nghị 7 điểm của bà Nguyễn thị Bình của chính phủ cách mạng lâm thời Miền Nam Việt Nam. Chúng tôi ủng hộ họ. Chừng nào chiến tranh còn tiếp diễn, chúng tôi còn tiếp tục ủng hộ họ. Sự ủng hộ nầy không những chỉ dành riêng cho nhân dân Việt Nam mà còn cho cả nhân dân Cam-pu-chia và nhân dân Lào. Còn việc họ chọn lựa một chế độ chính trị nào và giải pháp sau cùng mà họ đạt được sau khi lật đổ được những chế độ phản động thì đó là việc của họ, chúng tôi không hề can thiệp”
[Jeffrey Kimbal: The Vietnam War Files: Uncovering the Secret History of Nixon-Era Strategy, University Press of Kansas, 2004. Trang 187-192.]
Đó là đại cương những điều Tiến Sĩ Kissinger nói với Thủ Tướng Chu Ân Lai hồi tháng 7 năm 1971, gần một năm rưỡi trước ngày Hiệp Định Paris được ký kết và gần 4 năm trước ngày cộng sản Bắc Việt mở những cuộc tổng tấn công để cưỡng chiếm Miền Nam Việt Nam.
Tuy đã nói với Thủ Tướng Chu Ân Lai như vậy, nhưng 5 tháng sau khi Kissinger rời Bắc Kinh thì vào ngày 31 tháng 12 năm 1971, Tổng Thống Hoa Kỳ Richard Nixon đã gửi cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu một lá thư trước khi ông sang viếng thăm Trung Cộng vào tháng 2 năm 1972.
Trong bức thư nầy ông Nixon nói với ông Thiệu rằng:
“Xin Tổng Thống tin tưởng một cách tuyệt đối rằng chúng tôi sẽ không bao giờ ký kết một bản thỏa ước nào với Bắc Kinh mà lại phải hy sinh đến quyền lợi hay là những vấn đề liên quan đến sự sinh tồn của các quốc gia khác. Xin Tổng Thống cũng nên biết rằng những sự cam kết của Hoa Kỳ đối với các quốc gia khác sẽ không bị ảnh hưởng gì bởi cuộc thăm viếng Bắc Kinh của tôi.
Nếu mà vấn đề Việt Nam được đưa ra thảo luận tại Bắc Kinh thì tôi muốn bảo đảm với Tổng Thống rằng tôi sẽ đặt vấn đề một cách thẳng thắn và rõ rệt rằng lập trường của Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa là cuộc chiến tranh tại Việt Nam phải được kết thúc qua những thương thuyết trực tiếp với Hà Nội và nếu mà không phải như vậy thì chỉ có kết thúc bằng sự lớn mạnh của Việt Nam Cộng Hòa trong việc tự bảo vệ chống lại sự xâm lăng của Hà Nội.
Tôi muốn các nhà lãnh đạo Bắc Kinh phải hiểu một cách rõ rệt rằng cả hai chính phủ Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa sẽ luôn luôn sát cánh với nhau trong vấn đề sinh tử nầy” [Nguyễn Tiến Hưng and Jerrold Schecter: The Palace File, Harper & Row Pubhshers. New York. 1986, trang 366: Bức thư thư nhất trong 31 bức thư mà Tổng Thống Hoa Kỳ Richard Nixon gửi cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.]
Sáu tháng sau cuộc viếng thăm của Kissinger, Tổng Thống Nixon chính thức công du sang Bắc Kinh, lần đầu tiên một vị Tổng Thống Hoa Kỳ sang viếng thăm nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa từ khi nước này được thành lập năm 1949.
Trong một cuộc hội kiến, khi thảo luận về vấn đề Việt Nam, Tổng Thống Nixon đã nói với Thủ Tướng Chu Ân Lai rằng:
Rõ ràng là Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa muốn Hoa Kỳ bỏ rơi Đài Loan thì Trung Hoa đã được điều đó, còn điều chúng tôi muốn là Trung Hoa giúp cho chúng tôi về vấn đề Việt Nam thì chúng tôi không nhận được sự giúp đỡ nào.
Tôi muốn Thủ Tướng biết cho rằng dĩ nhiên là chúng tôi sẽ làm bất cứ điều gì để bảo vệ quyền lợi của chúng tôi, bảo vệ Quân Đội của chúng tôi và mang tù binh của chúng tôi trở về. Tôi hiểu rằng chính phủ của Thủ Tướng có thể có phản ứng về những việc chúng tôi phải làm. Chúng tôi sẽ không làm điều gì mà chúng tôi không coi rằng điều đó là cần thiết để đạt được mục tiêu của chúng tôi. Và mục tiêu của chúng tôi là triệt thoái sau khi những tù binh của chúng tôi hồi hương. Nhưng nếu chúng tôi không có cơ hội để thương thuyết, thì không phải là chúng tôi mà chính Bắc Việt mới là những kẻ đã bắt buộc chúng tôi phải sử dụng các sử dụng các hoạt động quân sự.
Nhưng thưa Thủ Tướng, vấn đề giải quyết chiến tranh là một việc không thể nào tránh được vì chính tôi đã quuyết định như vậy. Nhưng mà việc đó phải được thực hiện một cách đúng đắn. Điều đó sẽ không còn lâu nữa đâu.
Chu Ân Lai hỏi: Tổng Thống muốn nói chuyện rút quân.
Nixon trả lời: Phải. Triệt thoái toàn diện Quân Đội Hoa Kỳ. Nhưng như tôi đã nói, tôi nhấn mạnh rằng việc đó phải được thực hiện đúng cách. Chúng tôi sẽ không đơn phương rút quân mà không đạt được những mục tiêu của chính sách chúng tôi tại đó”. [Jeffrey Kimball: Sách đã dẫn, trang 202-203.]
Ba tháng sau, ngày 5 tháng 5 năm 1972, sau khi công du Bắc Kinh trở về, Tổng Thống Nixon lại gửi cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu một lá thư nữa, trong đó ông nói rằng:
Tôi muốn bảo đảm với Tổng Thống rằng tôi cũng cùng quan điểm với Tổng Thống: Khả năng tự vệ của Việt Nam Cộng Hòa là chiếc chìa khóa để bảo đảm cho một nền hòa bình lâu dài trong vùng Đông Dương.
Như Tổng Thống cũng nhận thấy, ngoại trừ một sự thống trị toàn diện tại Đông Dương, phe cộng sản ở Đông Dương xem bất cứ một giải pháp nào khác chỉ là một sự ngừng bắn chiến lựơc mà thôi. Đây có lẽ là một điểm mà chúng ta cần phải cảnh giác. Trong bản Thông Cáo Chung tại Thượng Hải ngày 27 tháng 2 năm 1972, tôi đã minh định tại Thượng Hải minh định rằng mục tiêu của Hoa Kỳ tại Á Châu và trên thế giới là đạt được một nền “hòa bình công chính và an ninh” (just and secure) công chính để hoàn thành những nguyện vọng của các dân tộc và các quốc gia mong ước được sống trong tự do và tiến bộ, và an ninh để không phải lo âu gì đến hiểm họa bị ngoại bang xâm lăng. Chính vì một nền hòa bình công chính và an ninh như vậy mà cả hai quốc gia chúng ta đã chiến đấu từ bao năm qua. Tổng Thống có thể tin chắc rằng tôi sẽ làm bất cứ điều gì trong phạm vi khả năng và quyền hạn của tôi để bảo đảm rằng những sự hy sinh vô bờ bến của nhân dân Việt Nam và Hoa Kỳ trở thành vô ích.
Hoa Kỳ không hề có thương thuyết điều gì sau lưng những người bạn của nước Mỹ, không hề có “một thỏa ước mật” (secret deals) nào cả. Trong khi thương thuyết với Trung Hoa cộng sản, chúng tôi đã căn cứ trên lập trường vững chắc là Hoa Kỳ luôn luôn tôn trọng những sự cam kết của nước Mỹ. Khi đề cập đến vấn đề Đông Dương tôi đã nhấn mạnh đến lập trường của Hoa Kỳ một cách rõ rệt và cương quyết như đã nói đến trong bản Thông Cáo Thượng Hải. Trung Hoa cộng sản không thể nào có thể nhầm lẫn được về ước vọng chân thành đối với hòa bình của chúng ta và Trung Cộng cũng không thể nào nhầm lẫn được về sự quyết tâm của chúng ta đối với nguyên tắc tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân Miền Nam Việt Nam”. [Nguyễn Tiến Hưng & Jerrold Schecter: Sách đã dẫn, trang 367: Bức thư thứ nhì trong 31 bức thư của Tổng Thống Nixon gửi cho Tổng Thống Thiệu.]
Như vậy thì những điều mà Tổng Thống Nixon “hứa hẹn, cam kết, bảo đảm” với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lại hoàn toàn không đúng như là những lời mà Tiến Sĩ Kissinger, cũng nhân danh Tổng Thống Hoa Kỳ, đã hứa hẹn, đã cam kết với Thủ Tướng Trung Cộng Chu Ân Lai vào tháng 7 năm 1971.
Theo một bản phúc trình của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia gửi cho Ngoại Trưởng Kissinger ngày 12 tháng 3 năm 1975 thì “vào cuối tháng 2 đầu tháng 3 năm 1975, có các phái đoàn cao cấp của Liên Xô và Trung Cộng bất thần đến viếng thăm Hà Nội”. Không hiểu các nhà lãnh đạo của Trung Cộng có tiết lộ điều gì về những sự thương thuyết giữa Tiến Sĩ Kissinger với Chu Ân Lai hồi năm 1971 với cộng sản Bắc Việt hay không, tuy nhiên nếu có, nếu Chu Ân Lai hay một nhân vật Trung Cộng cao cấp nào đó mà tiết lộ với một người của cộng sản Bắc Việt chỉ một câu “chúng tôi sẽ không bao giờ trở lại Việt Nam” của Tiến Sĩ Kissinger thì giới lãnh đạo cộng sản Bắc Việt cũng đã có đủ yếu tố, có đủ điều kiện cần thiết để quyết định kế hoạch tổng tấn công Miền Nam Việt Nam vào năm 1975 mà không hề lo sợ bị Hoa Kỳ trả đũa.
Chu Ân Lai Sang Hà Nội và Mùa Hè Đỏ Lửa
Sự thật thì chính Chu Ân Lai đã sang tận Hà Nội để “thông báo” cho Bắc Việt biết về những chi tiết liên quan đến Việt Nam trong cuộc tiếp xúc với Tiến Sĩ Kissinger, Cố Vấn của Tổng Thống Hoa Kỳ Richard Nixon.
Sau năm 1975, trong một cuốn sách nhan đề “Các Cuộc Thương Lượng Lê Đức Thọ-Kissinger Tại Paris”, tác giả Lưu văn Lợi, một phụ tá cho Lê Đức Thọ trong phái đoàn của Bắc Việt tại Hội Nghị Paris và vào năm 1961 đã tham dự Hội Nghị Genève về Lào, có tiết lộ cho biết rằng chỉ hai ngày sau khi Kissinger rời Bắc Kinh thì Chu Ân Lai đã bí mật sang Hà Nội:
“Ngày 13 tháng 7 năm 1971, Thủ Tướng Trung Quốc Chu Ân Lai bí mật qua Hà Nội thông báo việc Kissinger đi Bắc Kinh. Chu Ân Lai nói:
- Vấn đề Đông Dương là quan trọng nhất trong cuộc gặp gỡ giữa chúng tôi và Kissinger.
Vấn đề quan trọng hơn hết là vấn đề Việt Nam. Chúng tôi nói với Kissinger rằng chúng tôi kiên quyết ủng hộ 7 điểm của Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời. Các ông phải rút khỏi Đông Dương không điều kiện, phải rút hết, phải định thời hạn rút hết Hải, Lục, Không Quân, Lính Thủy Đánh Bộ, căn cứ quân sự, Quân Cảng. Nhưng Kissinger nói Mỹ sẽ giữ lại một số Cố Vấn kỹ thuật. Về chính trị, Mỹ không muốn bỏ Nguyễn Văn Thiệu.
Trong cuộc trao đối với Việt Nam (Hà Nội,) Chu Ân Lai nói rõ thêm là Hoa Kỳ không đòi quân đội miền Bắc rút khỏi Miền Nam nhưng họ đòi quân đội miền Bắc phải rút khỏi Lào và Campucbia. Theo ý ông Chu, vấn đề rút quân khỏi Việt Nam trở thành vấn đề số một của Mỹ, việc công nhận Trung Quốc là vấn đề số hai. Cuộc đàm phán Paris trở thành vấn đề then chốt, giai đoạn mấu chót là từ nay đến tháng 5 năm 1972. Các đồng chí Việt Nam bắt bọ rút trong năm nay, Trung Quốc ủng bộ các đồng chí đòi họ rút trong năm nay.
Kissinger còn nói khi về Paris sẽ gặp lại Lê Đức Thọ và nêu lên 4 điểm:
- Mỹ sẽ rút quân trong 12 tháng.
- Tù binh cũng thả trong 12 tháng.
- Phải ngừng bắn toàn diện.
- Phải tôn trọng Hiệp Định Genèce. Lưu văn Lợi-Nguyễn anh Vũ: Các Cuộc Thương Lượng Lê Đức Thọ Kissinger Tại Paris, sách được bán tại Hoa Kỳ, không ghi tên nhà xuất bản, trang 176-177
Sự kiện Thủ Tướng Chu Ân Lai cấp tốc bay sang Hà Nội chỉ hai ngày sau khi gặp gỡ Kissinger cho thấy rằng Trung Cộng rất quan tâm đến vấn đề Việt Nam, không hiểu Chu Ân Lai có tiết lộ gì thêm hay có khuyến cáo gì khác hay không, tuy nhiên theo tài liệu này thì Chu Ân Lai có nói rằng “giai đoạn mấu chốt là từ nay đến tháng 5 năm 1972″ và cộng sản Bắc Việt có lẽ đã nghe theo lời khuyên cáo đó khi họ cho mở những cuộc tổng tấn công tại nhiều nơi ở Miền Nam gây ra chết chóc cho hàng chục ngàn người mà cho đến bây giờ người Miền Nam cũng không ai có thể quên được tháng 5 năm 1972 đó, về sau đã được Nhà Văn Phan Nhật Nam đặt tên là “Mùa Hè Đỏ Lửa” và riêng tại Tỉnh Quảng Trị, Tỉnh địa đầu giới tuyến, hàng vạn người dân vô tội già trẻ lớn bé đã bị giết một cách vô cùng dã man dưới cơn mưa của đạn đại bác do cộng sản Bắc Việt pháo kích trên một đoạn đường hơn mười mấy cây số trên Quốc Lộ số 1 chạy vào Huế, về sau được các ký giả ngoại quốc gọi là “Đại Lộ Kinh Hoàng”.
Đối với những người bình thường thì tháng 5 năm l972 cũng chẳng có gì đặc biệt, tuy nhiên đối với các nhà lãnh đạo Trung Cộng thì tháng 5 năm 1972 lại vô cùng quan trọng vì đó là thời gian mà Tổng Thống Hoa Kỳ Richard Nixon chính thức sang tham dự hội nghị thượng đỉnh tại Mạc Tư Khoa với Tổng Bí Thư đảng cộng sản Liên Xô Leonid Brezhnev ngày 21 tháng 5 năm 1972.
Ý đồ của Trung Cộng là sau khi đón tiếp Tổng Thống Hoa Kỳ viếng thăm Trung Hoa cộng sản lần đầu tiên vào ngày 18 tháng 2 năm 1972, Mao Trạch Đông âm mưu sẽ dùng đàn em cộng sản Bắc Việt gây áp lực quân sự nặng nề ở Miền Nam Việt Nam trước và trong thời gian Tổng Thống Nixon sang Mạc Tư Khoa và cũng rất có thể tạo ra một nguyên nhân nhằm gây mâu thuẫn trầm trọng khiến cho phía Hoa Kỳ nghĩ đến việc có thể hủy bỏ hội nghị này giữa hai đại cường quốc Hoa Kỳ và Liên Xô. Và Trung Cộng đã suýt thành công trong mục tiêu này.
Ngày 1 tháng 5 năm 1972, cộng sản Bắc Việt xua quân chính quy vượt sông Bến Hải tấn công vào Tỉnh Quảng Trị. Chiều hôm đó, Đại Tướng Creighton Abrams, Tư Lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại Việt Nam (MAC-V) đã đánh một bức điện văn trình cho Tổng Thống Nixon biết “Tỉnh Quảng Trị đã rơi vào tay cộng sản Bắc Việt và trận chiến tấn công vào Huế đã bắt đầu. Tướng Abrams nói rằng Tỉnh Quảng Trị không lấy gì làm quan trọng, chỉ có thể ảnh hưởng đến tinh thần của Miền Nam mà thôi, tuy nhiên nếu mất Huế thì hậu quả sẽ vô cùng nghiêm trọng”.
Tổng Thống Nixon sau đó đã nói với Tiến Sĩ Kissinger: “Chúng ta sẽ phải cho những người bạn Xô-Viết của chúng ta biết rằng tôi sẵn sàng hủy bỏ cuộc hội nghị thượng đỉnh Mỹ-Liên Xô nếu đó là cái giá mà họ nghĩ rằng chúng ta sẽ phải trả. Tôi sẽ không dự hội nghị trong bất cứ trường hợp nào nếu mà chúng ta vẫn còn gặp khó khăn tại Việt Nam”. [Richard Nixon: The Memoirs of Richard Nixon, Grosset & Dunlap. New York, 1978. Trang 594-595].
Mấy hôm sau, Tổng Thống Nixon nói thêm: “Bây giờ trong trường hợp này, giác quan thứ sáu cho tôi thấy một điều rất rõ ràng: Bất cứ điều gì khác xảy ra thì chúng ta cũng không thể thua cuộc chiến tranh này Hội Nghị Thượng Đỉnh chẳng đáng giá “con mẹ” gì cả (the summit isn’t worth a damn) nếu cái giá phải trả cho nó là sự thất trận ở Việt Nam” [Richard Nixon: Sách đã dẫn. Trang 602]
Bất chấp đến hậu quả là Liên Xô có thể hủy bỏ cuộc Hội Nghị Thượng Đỉnh Mạc Tư Khoa, sau đó Tổng Thống Nixon ra lệnh tái oanh tạc các mục tiêu quân sự tại Bắc Việt và phong tỏa Hải Cảng Hải Phòng. Liên Xô chỉ phản đối lấy lệ, tuy nhiên ông Dobrynin, Đại Sứ Liên Xô tại Hoa Thịnh Đốn đã nói với Kissinger một câu cay đắng: “Tại sao mà các ông chống lại chúng tôi khi mà chính Hà Nội mới là những kẻ gây sự ?” [R. Nixon: Sách đã dẫn, trang 605.]
Sau đó thì Hội Nghị Thượng Đỉnh vẫn tiếp diễn như thường lệ, các nhà lãnh đạo Liên Xô đón tiếp phái đoàn Tổng Thống Nixon rất trọng thể và thân thiết, tuy nhiên ông Nixon cho biết rằng“Trong một phiên họp kín, Tổng Bí Thư Leonid Brezhnev đã giận dữ la lối lên rằng thay vì cùng nhau hợp tác để tìm kiếm sự kết thúc cuộc chiến tranh Việt Nam, tôi đã cố tâm tìm cách dùng Trung Cộng như là một phương tiện để làm áp lực Liên Xô phải can thiệp với Bắc Việt” [R. Nixon: Sách đã dẫn. Trang 613].
Chính Lê Đức Thọ, Cố Vấn Phái đoàn Bắc Việt tại Hội Đàm Paris cũng có nhận định tương tự: “Nixon sang Trung Quốc thì Liên Xô không thể nào không mời Nixon (sang Nga Xô) để Nixon đừng đi quá xa với Trung Quốc chống Liên Xô. Con bài Mỹ đặt ra là làm sao để các nước anh em giảm viện trợ cho Việt Nam nhằm hạn chế thắng lợi của ta. Cái mấu chốt chính của nó là ở đó” [Lưu văn Lợi-Nguyễn anh Vũ: Sách đã dẫn. Trang 223.]
Nhà Ngoại Giao cộng sản Bắc Việt Lưu văn Lợi cho biết về ý nghĩa của cuộc tổng tấn công này như sau:
“Cuộc tiến công Xuân-Hè của ta đã diễn ra sau khi Nixon đi Trung Quốc và trước khi ông ta đi Liên Xô. Không những thế, nó còn kéo dài nhiều tháng nữa…
Điều đó cho thế giới thấy rõ công việc của Việt Nam là do người Việt Nam giải quyết và cũng chứng minh cho Washington biết rằng cả Trung Quốc và Liên Xô vẫn giúp cho ta”[Lưu văn Lợi-Nguyễn anh Vũ: Sách đã dẫn. Trang 216.]
Cuộc “tổng công kích 1972″ mà cộng sản Hà Nội gọi là cuộc tiến công Xuân- Hè đã gây ra cái chết cho trên 30.000 thường dân vô tội tại Miền Nam và hai mục tiêu mà họ “giải phóng” là Thành Phố Quảng Trị thì vài tháng sau cũng được Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tái chiếm và Tỉnh lỵ An Lộc bị cộng sản vây hãm sau cùng rồi cũng được Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa giải tỏa.
Đối với các giới quan sát quốc tế thì cuộc tổng tấn công của cộng sản Bắc Việt tại Miền Nam vào mùa Hè năm 1972 đã không thành công vì sự chống trả mãnh liệt của các đơn vị Việt Nam Cộng Hòa và nhất là sự quyết tâm của Tổng Thống Nixon trong việc yểm trợ cho Đồng Minh Việt Nam Cộng Hòa.
Trong giác thư gửi cho Tổng Bí Thư Brezhnez, ông đã nói rõ: “Chúng tôi chấp nhận việc các ông trợ giúp cho Đồng Minh của các ông và ông cũng không thể nào làm khác hơn được, đó là ta cũng như như tất cả các đại cường quốc hãy cùng nhau trợ giúp cho đồng minh của chúng ta chỉ trong mục đích phòng thù đất nước của họ trong âm mưu mở những cuộc xâm lang các nước lân bang của họ”. [R. Nixon: Sách đã dẫn. Trang 605.]
Vào mùa Xuân năm 1975, ông Richard Nixon không còn ngồi ở chức vụ Tổng Thống Hoa Kỳ nữa vì ông đã từ chức từ năm l974, tuy nhiên Cố Vấn của ông là Tiến Sĩ Henry Kissinger vẫn còn ngồi trong chính phủ của Tổng Thổng Ford trong chức vụ Ngoại Trưởng, tức là chức vụ có trách nhiệm giải quyết vấn đề Việt Nam.
Đối với Ngoại Trưởng Henry Kissinger, một năm rưỡi sau khi Hiệp Định Paris được ký kết cũng là một “quảng thời gian vừa đủ” (decent interval) để cho nước Việt Nam Cộng Hòa có thể tồn tại với sự hiện diện của gần nữa triệu quân đội cộng sản Bắc Việt tại Miền Nam. Ông John Ehrlichman, Phụ Tá của Tổng Thống Nixon về các Vấn Đề Quốc Nội (Assistant to the President for Domestic Affairs) có kể lại rằng sau khi Hiệp Định Paris được ký kết vào ngày 27 tháng 1 năm 1973, ngày hôm sau Kissinger trở về _ Hoa Thịnh Đốn. Ông Ehrlichman gặp Kissinger tại Phòng Lincoln trong Tòa Bạch Oc và đã hỏi Kissinger:
- Theo anh thì Miền Nam Việt Nam có thể còn tồn tại được bao lâu nữa ?
Kissinger trả lời như sau: Tôi suy nghĩ rằng nếu may mắn thì họ có thể giữ được chừng một năm rưỡi. John Ehrlichman: Witness to Power, the Nixon Years, trang 288
Từ tháng Giêng năm 1973 cho đến tháng 4 năm 1975 thì cũng gần một năm rưỡi, đó là một khoảng thời gian vừa đủ coi được rồi và người Mỹ nhắm mắt làm ngơ mặc cho cộng sản Bắc Việt muốn làm gì thì làm. Bắc Việt cũng biết rõ như vậy và họ đã cướp thời cơ.
(còn tiếp)
◾◾◾◾◾
Trí Nhân Media
Trí Nhân Media
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét