28-04-2013
trích từ "“Chính Danh” của Ngày 30 Tháng Tư 1975"
Họ không phải là “Việt kiều”, những “người Việt ở nước ngoài”, những di dân kinh tế, du sinh, hay dân chúng du lịch xuất ngoại rồi ở lì “nước ngoài”. Trái lại, họ là gần 3 triệu người dân Việt chung một số phận lịch sử, một căn cước “Tỵ Nạn Chính trị” ["political refugees”] mà báo chí ngoại quốc gọi là “exilés politiques” hay “Vietnamese Diaspora” [cùng hoàn cảnh, vị thế, thân phận của nhóm người Do Thái mất nước, tỵ nạn tại nước ngoài].
Những người “Tỵ Nạn Cộng Sản” này đã phải trốn bỏ đất nước, bằng đủ cách lén lút đường bay, đường biển, đường bộ. Họ đã từng chấp nhận mọi hoàn cảnh nguy nan, hãm hiếp, chết chóc, cốt để ra khỏi địa ngục trần gian của Bác và Đảng. Họ được xếp loại di dân đặc biệt, với những chứng minh thư như Parolee I-94, ODP, HO, chung gốc “political refugees”, hay “réfugiés politiques”, “exilés”, “diaspora”. Họ luôn luôn là Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản vậy. Nếu ai khước từ danh xưng này sẽ gập trở ngại với luật di trú, coi như vi phạm vì dối trá, gian lận [fraud] lúc khai báo nhập cảnh, và như thế bất cứ lúc nào cũng có thể bị trục xuất.
Họ xuất xứ từ miền Bắc, miền Trung, tỵ nạn CSVN từ 1954. Họ hoà nhập với người dân hiền lành miền Nam Việt Nam để xây dựng và nhận hưởng một nền dân chủ non nớt, khó khăn thời chinh chiến. Cuối cùng, từ ngày 30 tháng Tư 1975, Họ chỉ là những người Việt tứ xứ, có chung một đất nước, một chính thể tự do, bị CSVN đánh tháo từ Mùa Thu 1945, chiếm đoạt năm 1954, rồi 1975.
Vậy những người VTNCS không phải là những người vô tổ quốc [apatrides], mà là những người có tổ quốc, nhưng tổ quốc của họ đã bị CS quốc tế cướp mất.
Như người bị kẻ gian cướp đoạt nhà cửa, tài sản, rõ ràng họ đang mất cửa, mất nhà, mất tài sản, nhưng về mặt pháp lý họ vẫn là sở hữu chủ thực sự của căn nhà, tài sản bị cướp đoạt. Vậy dù người Việt Tỵ Nạn CS ngày nay đang bị CSVN tước đoạt đất nước, nhà cửa, và cũng có thể còn bị CSVN cầm cố, chuyển nhượng cho Trung Cộng, nhưng về mặt pháp lý, công lý và chính nghĩa, người Việt Tỵ Nạn CS vẫn là công dân của đất nước và chính thể tự do mà CSVN đã phá hoại, tước đoạt. Người VTNCS có quyền truy hoàn tư cách công dân của họ đối với đất nước Việt Nam nguyên thủy, trước cũng như sau nền đô hộ cộng sản. Vậy người VTNCS đang mất nước có quyền truy thu song tịch [Mỹ-Việt/Pháp-Việt/Úc-Việt/Gia Nã Đại-Việt], đồng thời truy sách tài vật, nhà cửa, đất nước bị tước đoạt, đánh cắp.
Vậy Đối Với Đa số Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản tại Thế Giới Tự do và Các Nạn Nhân Yêu Chuộng Bị Kẹt Trong Nước, ngày 30 tháng Tư 1975 phải là “Ngày Quốc Hận” vì:
Nhóm chữ “Quốc Hận” là một phạm trù, một khái niệm tổng quát bao gồm những quan hệ lịch sử, pháp lý, chính trị, tình cảm dân tộc mà chỉ người Việt — người trong cuộc — mới hiểu, mới có quyền xác định, gìn giữ như một kỷ vật linh thiêng, một dấu ấn biểu tượng gắn bó bằng máu mủ, nước mắt và hy vọng sinh tồn.
Nhóm chữ “Quốc Hận” bao gồm:
- cảnh đau đớn, nhục nhã “mất nước” từ 1954;
- sự hãi hùng, oán hận trong “Tháng Tư Đen” 1975 khi người dân yêu chuộng hoà bình, cố gắng bảo vệ tự do trên mảnh đất nhân bản miền Nam Việt Nam thấy rõ hậu quả của thế lực “đồng minh Hoa Kỳ” bội ước [breach of contract] trong “cam kế” be-bờ cộng sản, xây dựng dân chủ chân chính tại mảnh đất tiền đồn chống Cộng tại Đông Nam Á;
- nỗi ân hận, tủi nhục khi lỡ tính, lỡ chân bị kẹt lại trong nước chìm đắm trong bể khổ của phản trắc nô lệ hoá cả một dân tộc, kẻ bị tù dày, ruồng bỏ, người bị chậm tiến, đói khát, bóc lột, trường kỳ vô gia cư, vô tổ quốc ngay tại xứ sở của mình, hay nơi đất khách quê người.
Nếu muốn chuyển hoán nhóm chữ “Ngày Quốc Hận” của Ngày 30 tháng Tư sang ngoại ngữ thì phải cân nhắc, đi sâu vào ý nghĩa căn bản, vào cái tâm của ngữ cảnh [etymological context] đa nguyên, đa dạng trên. Đó có thể là những chữ ghép tương tự của “Vietnam Mourning Day”, “Fall of South Vietnam Memorial Day”, “Vietnam calamity Remembrance Day” [Tưởng Niệm Ngày Quốc Nạn], “Journée Vietnamienne de Deuil National”, hay gọn gàng, sắc bén là “VC-Hatred Day” để ghi rõ sự ghét bỏ CSVN như một điều bất hạnh trọng đại; một tai ương ghê tởm về ý thức hệ thuộc tội phạm nhân loại.
Những từ ngữ hay dịch thuật như “Remembrance Day” [Ngày Tưởng Niệm] và “Ngày Diễn Hành Cho Tự Do (“March for Freedom”) lại có vẻ quá mông lung, vô vị, không minh thị trực diện nội vụ, không đủ tầm vóc so với cảnh khốn khổ, tận cùng bi đát của Ngày 30 tháng Tư tại Việt Nam, của dân tộc Việt Nam.
“Tự do” ư, “Mất Mát Được Đền Bù” ư: quá nhỏ so với sự trả giá qua cao, quá đắt [hy sinh, mất mát, hãm hiếp, chết chóc]. Vài triệu người mừng hão trong nước, hay một thiểu số may mắn hưởng thụ tự do, thành đạt, tiến bộ nơi đất khách quê người làm sao so sánh bù đắp cho gần 90 triệu người Việt đau khổ, bị kẹt trong nước, đang khốn đốn, thất thểu, chịu cảnh tù đày, hủy hại dưới ách đô hộ thực dân, dã man, quỷ quyệt của CSVN.
Còn gần đây, lại xẩy ra hiện tượng vô duyên [“…đối diện bất tương phùng”] hay “danh bất chính tất lời nói không thuận”, khi có thêm Nghị Quyết SJR 455 với “Quyết định bởi Thượng Viện Virginia, cùng với Hạ Viện, Rằng Hội Đồng khoáng đại, định danh hiệu ngày 30 tháng Tư, 2013 và mỗi năm sau đó, là “Ngày công nhận người Nam Việt Nam tại Virginia” (RESOLVED by the Senate of Virginia, the House of Delegates concurring, That the General Assembly designate April 30, in 2013 and in each succeeding year, as South Vietnamese Recognition Day in Virginia).[12]
Trước hết cần cảm tạ TNS Dick Black và lưỡng viện Virginia đã tuyên dương “Ngày công nhận người Nam Việt Nam [dịch chính xác] tại Virginia” cốt để tỏ thiến chí với “thổ dân thiểu số”/ethnic group gốc “South Vietnamese” [dù thực tế là nhằm lấy cảm tình và số phiếu của nhóm thiểu số trong kỳ bầu cử tới. "Fair", không sao, “có đi có lại mới toại lòng nhau”].
Tuy nhiên nhân việc này, mấy ông bà Lập Pháp của TB Virginia lại làm một tác động rất “politically incorrect” [sai quấy về mặt chính trị]. Vô tình hay cố ý, họ đã dùng thế lực “lập pháp” để ban bố một chiêu bài tuyên dương mua chuộc hay “hối lộ cảm tình chính trị” để làm kẹt hay làm loãng uy thế văn hoá lịch sử, giáo dục của “Ngày Quốc Hận”, mà hầu hết các tổ chức cộng đồng và tổ chức xã hội dân sự gốc Việt đang nặng lòng tôn vinh.[13]
Nếu nhà lập pháp không được hưởng quyền miễn trách, TNS Dick Black và đồng liêu có thể bị khiển trách vì “cạnh tranh bất chính” không? Đương nhiên, trong một xã hội tôn trọng quyền tự do ngôn luận, tự do tôn giáo và chính kiến [First Amendment Free Speech Rights] như tại Virginia của Hoa Kỳ, ai cũng có quyền có ý kiến chân chính, tuyên bố lập trường một cách thành khẩn, nhưng được những ai hưởng ứng mới là điều quan trọng.
Chúng ta hãy đợi Ngày 30 tháng Tư 2013 và những năm kế tiếp xem có bao nhiêu công dân Virginia/Hoa Kỳ gốc Việt tham dự nghi thức tôn vinh “Ngày công nhận người Nam Việt Nam tại Virginia” [South Vietnamese Recognition Day in Virginia] thay vì “Ngày Quốc Hận”. Chắc cũng được vài chục, vài trăm người. Nhưng cũng có thể còn ít hơn, nều công dân Virginia không chịu đọc nguyên bản Anh ngữ của Resolution SJR 455, mà lại chị căn cứ vào dịch thuật phóng đại của GS Nguyễn Ngọc Bích thì chắc họ phải đợi lâu lắm mới thấy cử hành “Ngày Nam Việt Nam ” hay “Ngày VNCH” [sic], vì cả hai “pháp nhân hiến định” [legal & constitutional entities] này chưa hề được ghi trong bất cứ Nghị Quyết hay Resolution nào đã ban hành, mà chỉ “hiện hữu” trên mạng lưới, nhờ ông Nguyễn Ngọc Bích vừa “tạo-dịch” thêm ngoài-văn-bản nguyên thủy của Resolution SJR 455. “Traduire, c‘est trahir/ Traduttore, traditore”. Dịch là phản. “Nhị” sao đã thất bản rồi. Nói một đằng, làm một nẻo: “danh bất chính tất lời nói không thuận. Lời nói mà không thuận tất việc chẳng thành…” [Học thuyết “Chính Danh” --- Khổng tử trong Luận Ngữ]
Muốn hiểu sự đau đớn, tủi nhục, ghê tởm của người Việt Tỵ Nạn CS và của toàn dân Việt Nam bị CSVN đô hộ, bị Trung Cộng doạ nạt, xúc phạm, hành hạ hằng ngày thì người Mỹ, người Âu Châu và người Do Thái phải vạch rõ, coi rõ, nhớ lại, nhớ mãi [chứ không "liếm"] vết thương đau kinh hoàng của chính họ, của dân tọc họ. Đó là những Ngày Xâm Chiếm [Occupation] các Thủ Đô Âu châu của Đức Quốc Xả, của Nga Xô trước và sau Đệ Nhị Thế Chiến; Mùa Tưởng Nhớ Holocaust của toàn dân Do Thái [dù họ có quốc tịch Pháp, Đức, Tiệp Khắc, Hung Gia Lợi, v.v.]; và gần đây Ngày Khủng Bố September 11 ngay tại thị trấn New York, ngay trong “lòng đất” của Hoa Kỳ. Dan Rather ngày hôm đó lên đài CBS khóc và tự hỏi “Why did the terrorists hate America so much they wanted to destroy it?” [Tại sao quân khủng bố thù ghét Hoa Kỳ quá độ đến nỗi muốn tiêu diệt đất nước này?] Tại sao lại có “Ngày Quốc Hận/Quốc Nạn” kiểu này ngay tại Hoa Kỳ? Hỏi tức tự trả lời vậy.
Những người Việt Tỵ Nạn CS và tất cả những người Việt Nam tự trọng, yêu chuộng hoà bình, tự do nhân bản bị kẹt trong nước ngày hôm nay mà còn cố tình hay vô tình phủ nhận hay ngờ vực Ngày 30 tháng Tư là “Ngày Quốc Hận”, thì quả thật họ có “vấn đề”, hoặc lú lẫn nên dễ quên, hay có sạn trong đầu nên chậm hiểu, chậm tỉnh ngộ. Chúng ta không cần đếm xỉa tới những con xâu nhị trùng, ăn bám, ăn thừa cặn bã các đại gia mafia CSVN. Họ chỉ là trò cười của chính họ. Tự hề. Tự thải.
KẾT LUẬN
Xin nhắc lại và nói thật rõ: Ngày 30 tháng Tư 1975 không hề giành lại độc lập và chủ quyền cho dân tộc, cho đất nước, khi đảng Cộng Sản Việt Nam từ 1950 tới 1975 đã dựa vào Trung Cộng quá nhiều, nên sau đó phải trả nợ. Hậu quả là Việt Nam, từ ranh giới, núi rừng, biển đảo, tới toàn bộ chính quyền đang mất dần vào tay Trung Cộng. Như vậy, không những chỉ người dân miền Nam Việt Nam — kẻ thua trận sau ngày 30 tháng Tư 1975 —, mà là cả dân Tộc Việt Nam đã và đang “mất nước”, mất tự do, hạnh phúc, an sinh, mất danh dự làm người có căn cước gốc Việt chân chính, tử tế, nhân đạo.
Sự thật vẫn là sau 38 năm lang bạt khắp nơi trên thế giới, Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản và con cháu họ đã đã thu hồi tự do và lẽ sinh tồn với giá hy sinh rất đắt, vượt bực. Dù họ và con cái họ đã trở thành những phần tử hài hoà, ưu tú nơi họ tới lập nghiệp, hội nhập, thân phận họ, căn cước họ vẫn thuộc “gốc tỵ nạn/refugees”, đầy ám ảnh hà hiếp, đầy thương tích ngược đãi cộng sản. Con của người viết là một luật sư thuộc LSĐ New York và được chọn làm khoa trưởng tại một Đại Học Hoa kỳ, trong phần “Tóm lươc Tiểu sử/Résumé/Curriculum Vitae” đã ghi mình có “Refugee DNA”: Thân phận máu mủ mình có “thông tin di truyền Tỵ Nạn”.
Trong tinh thần đó, người Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản có đủ thẩm quyền lịch sử, truyền thống và pháp lý [có gia phả gốc gác, căn cước, thẻ tùy thân, sổ thông hành, chứng minh thư sở hữu tài sản, quốc tịch v.v.] để nói mình “mất nước”, bị tước đoạt căn cước, thân phận và tài sản, và do đó có đủ tư cách kêu gào, công bố, nhắc nhở, bảo trọng “Ngày Quốc Hận”. Những người trong cuộc, những phần tử của tập thể nạn nhân cần bảo trọng hành vi trọng đại, cao thượng của người Việt còn khí phách tôn trọng lịch sử oan trái, còn cố gìn giữ ngày lễ “mặc niệm” linh hồn tử sĩ đã hy sinh cho tổ quốc, cho “cố quận”, cho dân tộc. Việt Nam Cộng Hoà bị bức tử, dân tộc bị chết oan, tù đày, nô hoá mãi mãi phải được ghi nhận là một Quốc Nạn trong dòng lịch sử Việt.
Đến ngày nay, 38 năm sau ngày 30 tháng Tứ 1975, đa số người Việt trong và ngoài nước không hề quên những tội ác của CSVN, những hành vi bất nhân, những bạo hành ám hại dân, phá hoại đất nước của một chế độ tồi tệ, gian ác, nhiễm trùng, nhiễm độc. Và đến ngày nay, đa số Người Việt Tỵ Nạn CS không hề a tòng với kẻ phạm pháp, và cũng không hề mong muốn Cộng Sản tiếp tục thao túng trên đất nước hay phá hủy dân tộc Việt Nam ở bất cứ đâu.
Đúng, tuy Hiến Pháp Việt-Rừng-Rú vẫn ngoan cố duy trì Điều 4 và những điều kế tiếp tương tự, thực tình thì bè lũ hậu duệ của đám thờ phụng “Tư Tưởng và Đạo Đức Hồ Chí Minh” [sic] không còn là thứ cộng-sản-chính-thống hay chính-quy-đội-nón-cối-đi-dép-râu nữa, nên đã có người nhẹ dạ hay cận thị đã tự nhủ “chả cần chống cộng làm gì … khi không còn cộng”!?
Nhưng thật ra, chúng ta vẫn còn nhu cầu gạt bỏ cái tổ hắc đảng cường hào ác bá của thế kỷ 21, cái băng đảng mafia tư bản đỏ vua chúa lỗi thời đó, dù họ có đổi danh tính, bôi phấn quét vôi để tân trang căn cước hay nguỵ tạo nhãn hiệu.
Họ vẫn là họ, vẫn ác với dân, hèn với giặc; vẫn cho công an đánh đập dân oan; vẫn bỏ tù công dân vô cớ; vẫn tước đoạt từ cái đinh, cục đất của dân, từ bạc cắc tới bạc tỷ của thiên hạ. Họ hết là tên du kích lái xe đạp đi đấu tố để tự lột xác và tự thăng cấp thành ngài đại gia, quan ủy viên, ngài bộ trưởng vung tay bán nước hay sách nhiễu vô chừng. Đã tới lúc vở tuồng “Hát Bộ” lai căng Tớ-Tầu này chấm dứt. Nhưng vẫn cần có người “trong cuộc” —người dân Việt — ra tay kéo màn, nậy nọc độc.
Chỉ khi CSVN cáo chung, khi toàn dân Việt Nam truy hồi lại đất nước, đòi được lại ranh giới, núi rừng, biển đảo; truy sách lại tài sản, tự do, nhân phẩm ngay trên xứ sở mình; và dõng dạc tuyên bố trả lại sự thật cho lịch sử và tư tưởng Việt, chỉ lúc đó, giai đoạn đó mới hết có “Ngày Quốc Hận”.
_______________________
CHÚ THÍCH
[12] GS. Nguyễn Ngọc Bích, “30/4 Năm Nay, Virginia Đi Đầu Trong Việc Công-Nhận Ngày Nam Việt-Nam” [Bản dịch sang Tiếng Việt] & 2013 SESSION, SENATE JOINT RESOLUTION NO. 455 Designating April 30, in 2013 and in each succeeding year, as South Vietnamese Recognition Day in Virginia [Original text, English].
[13] KHÁNG THƯ của Tập Thể Người Việt tại Hoa Kỳ Về việc Quốc Hội Tiểu Bang Virginia Ban Hành Quyết Nghị Công Nhận Ngày 30 tháng 04 là “Ngày Nam Việt Nam”
TS LS Lưu Nguyễn Đạt
Virginia, USA, April 26, 2013
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét