tháng 3 -2007
Trí Nhân Media: Nhân việc CSVN thực hiện cuốn phim "GIẢI MÃ MẬU THÂN: 1968" do bà Lê Lết Phong Lan đạo diễn - để chạy tội vụ thảm sát Mậu Thân, tại Huế năm 1968, Trí Nhân Media xin trích đăng một vụ thảm sát khác không kém phần ghê rợn ác độc dưới bàn tay quỉ dữ CSVN mà nạn nhân là các đồng bào trên 2 chiếc ghe vượt biên đi tìm đời sống tự do, dân chủ, hạnh phúc, ấm
no.
Lê Lết Phong Lan tuyên bố:"Trong quá trình đi tìm tài liệu, đi tìm những nhân vật là chứng
nhân lịch sử của cả hai chiến tuyến, tôi đã nhìn thấy những tấm ảnh tư liệu ghi
lại hình ảnh chiến sỹ giải phóng của ta hy sinh như thế nào, đổ xương đổ máu ra
sao… Tôi không tin những người lính ấy lại có thể tạo ra những cuộc thảm sát.” ...
Thì đây ..... sao bản trò chơi giết người tiết kiệm đạn mìn từ các "bộ óc tham mưu đẻ ra kế hoạch giết người trong các vụ thảm sát", lúc này do chính bộ đội Việt cộng, lực lượng trú đóng trên đảo Trường Sa ra tay thực hiện. Và..... nạn nhân là hơn 130 đồng bào vượt biển tìm tự do trên một con thuyền xuất phát từ thành phố Nha Trang.
"Trời ơi! súng nổ nhắm vào những người đang quấn chặt dây thừng ngang mình để vào bờ, thế là chỉ còn có chờ chết mà thôi, làm sao mà có thể chạy thoát được khi sợi dây oan nghiệt đang trói mọi người lại với nhau. Không một ai còn sống sót qua trò chơi man rợ của lũ người không tim trên đảo."
"Tiếng kêu khóc vang dội trời xanh, những con người Việt Nam khốn khổ đang quỳ lạy những con người Việt Nam khác ngừng tay bắn giết đồng bào mình. Lịch sử Việt Nam từ bao nhiêu ngàn năm nay chưa bao giờ có những trang sử ô nhục như thế này."
Trước khi vào chuyện:
Lời tác giả: Câu chuyện sau đây được viết ra để tưởng niệm hơn 130 đồng bào trên
"ghe ông Cộ" trên đường vượt biển tìm tự do đã bị Việt cộng tàn sát
dã man vào tháng Tư năm 1979 ở đảo Trường Sa, và cũng để gửi đến các con yêu
quý của ba: Chí Dũng, Đông Nghi, Tì Tì.
Thời gian gần đây, dư luận đồng bào trong và ngoài nước vô cùng phẫn nộ trước
nguồn tin Trung cộng đã xả súng bắn vào ngư dân Việt Nam đang săn bắt hải sản
chung quanh khu vực đảo Trường Sa thuộc lãnh hải Việt Nam, gây thiệt hại về
nhân mạng cũng như tài sản cho ngư dân Việt Nam. Đây không phải là lần thứ nhất
Trung cộng xả súng bắn vào ngư dân Việt Nam.
Cách đây vài năm, Trung cộng cũng
đã xả súng bắn vào ngư thuyền Việt Nam khiến cho 8 người bị chết và nhiều khác
bị thương, sau đó Trung cộng còn ngang nhiên bắt giam nhiều ngư thuyền và ngư
dân Việt Nam một cách trái phép vô cùng ngang ngược, bất chấp công pháp quốc tế
về luật hàng hải.
Đây là hai vụ điển hình nhất mà dư luận quốc tế có đưa tin và
đề cập đến. Dĩ nhiên, là còn có nhiều vụ khác đã xảy ra nhưng không có người biết
đến. Điều đáng để nói là: nhà cầm quyền Việt cộng đã không có lấy một hành động
đáng kể nào được xem là để bảo vệ công dân của mình trước các hành động man rợ
của Trung cộng. Thái độ nhu nhược và bất lực của Việt cộng trước việc Trung cộng
bắn giết bừa bãi dân lành đã bị đồng bào nguyền rủa.
Nhưng đâu có ai biết được một câu chuyện đã xảy ra cách đây 28 năm về trước,
cũng tại quần đảo Trường Sa này. Một cuộc tàn sát man rợ khác đã diễn ra, máu
đào loang thắm cả một vùng biển, xác người trôi vất vưởng làm mồi cho muôn loài
cá.
Cuộc thảm sát man rợ này đã diễn ra do chính bộ đội Việt cộng, lực lượng
trú đóng trên đảo Trường Sa ra tay thực hiện. Và..... nạn nhân là hơn 130 đồng
bào vượt biển tìm tự do trên một con thuyền xuất phát từ thành phố Nha Trang.
Trung cộng là giống dân ngoại chủng luôn luôn có ý đồ xâm chiếm Việt Nam từ
hàng ngàn năm nay. Trung cộng bắn giết ngư dân Việt Nam cũng do bản chất xâm
lăng, đồng thời muốn chứng tỏ thế nước lớn của mình đối với Việt Nam. Thế
nhưng, bộ đội Việt cộng xả súng hàng loạt bắn thẳng vào chính những người cùng
một dòng máu, cùng một màu da, cùng một ngôn ngữ, mà họ gọi là đồng bào, chỉ vì
những đồng bào này đã bỏ nước ra đi vì không chấp nhận một chế độ độc tài cộng
sản. Hành động này của bộ đội Việt cộng đã vượt qua mức tưởng tượng bình thường
của con người. Hành vi tội ác này của chúng nó, ngày nay đã được đảng cộng sản
xóa bỏ để trở thành quá khứ, và những người sống sót trên con tàu oan nghiệt đó
trở thành những khúc ruột xa ngàn dậm theo chủ trương của đảng, cho dù những
người này không và sẽ không bao giờ quên dược cái đêm kinh hoàng của tháng 4
năm 1979 của 28 năm về trước.
Bộ máy tuyên truyền của đảng Vc giờ đây đang cùng
với những cá nhân, đảng phái đón gió trở cờ đang cùng nhau diễn xuất kịch bản
"xoá bỏ hận thù, hướng tới tương lai " Người sĩ quan bộ đội cộng sản,
người đã trực tiếp ra lịnh thẳng tay tàn sát đồng bào vô tội trên đảo Trường Sa
28 năm về trước, nếu còn sống, có lẽ giờ đây đã biến thành một tay tư bản đỏ
giàu sang, và đang ngồi ở vị trí Ủy viên Trung ương đảng cộng sản Việt Nam.
Tác giả câu chuyện này xin được viết ra đây câu chuyện của 28 năm về trước, như
một nén hương lòng thắp muộn để tưởng nhớ đến hơn 130 đồng bào trên " ghe
ông Cộ " những người bạn đồng hành của tác giả đã bất hạnh gục ngã trước
những họng súng oan nghiệt của những tên Việt cộng cuồng sát. Những người còn
may mắn sống sót sau cuộc thảm sát trên, nếu có dịp được đọc những dòng chữ này
xin hãy cùng nhau dành một phút để cầu nguyện cho những bạn đồng hành xấu số của
chúng ta. Những kẻ theo cộng sản là những kẻ cuồng tín, cuồng sát. Cho nên
chúng mới xả súng bắn những người chạy đi, dù là đàn bà hay con trẻ, trong tay
không tấc sắt. Dù chúng đổi tên, thay áo bộ đội, vất nón cối, bỏ dép râu....
Nguyễn Nhân Chứng.
****************************
Chúa ơi cứu con với !
Tiếng thét đau thương, hãi hùng của người phụ nữ nằm sát cạnh tôi, cùng lúc với
một dòng nước ấm văng vào mặt đã khiến cho tôi phải lấy tay vuốt mặt mình và
bàng hoàng nhận ra toàn là máu, máu nóng đã ập vào mặt tôi từ người phụ nữ bên
cạnh. Tôi ngẩng cao đầu lên một chút để nhìn sang bên cạnh, người phụ nữ đang oằn
oại với vết thương một bên đùi vỡ toác do đạn xuyên phá, máu tuôn xối xả. Tôi
xót xa nhìn người phụ nữ đang lăn lộn vì đau đớn, nhưng cũng đành bất lực không
cứu giúp gì được, vì ngay bản thân tôi cũng đang nằm bẹp dí xuống sàn tàu để
tránh đạn.
Đạn vẫn tiếp tục nổ, tiếng rên xiết, la hét, kêu gào, của những người bị trúng
đạn quyện vào nhau tạo thành một thứ âm thanh hỗn loạn đến rợn người, âm thanh
giữa biên giới của sự sống và cái chết chỉ diễn ra trong một cái nháy mắt, mới
còn nghe rên la đó.... một loạt đạn tiếp theo đã ghim chặt vào thân người, lập
tức tiếng rên la im bặt, một con người đã vĩnh viễn ra đi, những người khác tiếp
tục rên la, chờ đợi loạt đạn tiếp theo cướp lấy mạng sống của mình.
Tôi tự nhủ
thầm, muốn sống còn phải rời bỏ con tàu ngay lập tức. Tôi vùng dậy, và nhận ra
con tàu đang chìm dần từ phía sau của thân tàu, phía trước của con tàu đã bị đạn
pháo bắn gãy, đang chổng lên trời. Trước mặt tôi, chung quanh tôi, máu thịt
văng tung tóe, thây người nằm la liệt, một cảnh tượng hãi hùng mà tôi chưa từng
chứng kiến. Thần kinh tôi tê cứng vì sợ hãi khiến tôi muốn khụy xuống, nhưng bản
năng sống còn của con người trong tôi bừng sống dậy, tôi lao mình ra khỏi con
tàu phóng xuống biển vừa lúc một cơn sóng biển chụp tới cuốn tôi rời xa con
tàu.. Thật là may mắn, tôi vừa rời xa con tàu thì dường như cùng một lúc, một
trái đạn pháo kích rớt chính xác ngay giữa con tàu khiến con tàu gãy đôi và
chìm xuống biển, mang theo toàn bộ số người có mặt trên tàu lên tới trên 130
người.
Trên mặt biển bây giờ đã không còn thấy bóng dáng con tàu đâu nữa, thay vào đó
là những vật dụng bể nát của con tàu, những tấm ván bể nổi trôi lềnh bềnh trên
sóng nước. Xác người chết ! xác người chết trôi nổi quanh tôi, phụ nữ, đàn ông,
con nít, già có, trẻ có. Tất cả, không một ai còn được toàn vẹn thân thể, không
một ai còn sống cả..... Có lẽ tôi là người sống sót duy nhất còn lại của con
tàu, ngoài tôi ra thì chỉ còn lại toàn rặt là xác của người chết. Máu, là máu,
từng vệt loang dài chảy ra từ vết thương của những xác chết, theo dòng nước
trôi quanh tôi. Thủy triều đang lên, tôi rùng mình nghĩ đến đàn cá mập đói đang
lẩn quẩn quanh đây chờ thủy triều lên cao sẽ theo mùi máu mà kéo đến, thì cho
dù tôi có còn sống thì vẫn phải làm mồi cho đàn cá mập như những xác chết kia
mà thôi! Tôi vươn tay cố gắng chụp lấy một mảnh ván để bám vào, tôi bám chặt
vào mảnh ván, nhắm mắt lại cầu nguyện, dọn mình chờ chết, và trong cái khoảnh
khắc tuyệt vọng đó tôi đã nghĩ đến gia đình, nghĩ đến những người thân thương
ruột thịt, đã không biết được rằng tôi đã bỏ thây giữa biển cả và làm mồi cho
cá mập.
Vĩnh biệt tất cả.......
***
Câu chuyện bắt đầu: Chuẩn bị ra đi tìm tự do, dân chủ, hạnh phúc, ấm no
3 giờ sáng thành phố Nha Trang vẫn còn chìm trong giấc ngủ, hàng trụ điện bên
đường Nguyễn Thái Học tỏa ánh sáng mờ mờ, soi bóng tôi trên đường. Vai mang cái
phao (loại ruột xe hơi được bơm căng lên) giả làm dân đi tắm biển sớm (đối với
người dân Nha Trang thì việc có người đi tắm biển vào lúc 3- 4 giờ sáng là chuyện
thường) tôi rảo bước thật nhanh hướng về phía biển cho kịp giờ hẹn. Xuống tới
bãi cát, tôi đưa mắt nhìn quanh dò xét địa thế, bãi biển vắng lặng không một
bóng người, tôi yên tâm cởi bỏ áo ra chỉ mặc chiếc quần cụt, giả vờ làm vài động
tác thể dục trước khi bước xuống nước. Từ xa, về phía biển có ánh sáng mù mờ của
một chiếc thuyền câu đang tiến vào bờ, tôi lại đảo mắt nhìn quanh kiểm soát lần
cuối trước khi rời bãi cát. Bước xuống nước, tôi nhoài người bơi nhanh về hướng
chiếc thuyền câu, trả lời đúng mật mã, một bàn tay vươn ra kéo tôi lên chiếc
thuyền. Thuyền lướt nhẹ trên mặt biển hướng về "Hòn Tre" cá nhân tôi
thì phải nằm sát xuống khoang thuyền không được ngồi dậy cho đến khi tới chỗ ẩn
nấp ngoài đảo Hòn Tre.
Hòn Tre là một hòn đảo lớn, nằm cách bờ biển và hải cảng Nha Trang khoảng chừng
6 cây số, cư dân trên đảo này rất ít chỉ chừng vài chục gia đình, hầu hết đều
sinh sống bằng nghề chài lưới. Nơi đây cũng là nơi ẩn nấp của các tàu thuyền và
ngư dân mỗi khi gặp gió bão. Con thuyền chạy được chừng hơn tiếng đồng hồ thì tới
một cửa động nằm khuất sâu vào phía trong trên đảo Hòn Tre, rất khó mà tìm thấy
nếu không quen thuộc được địa hình nơi đây. Từ phía ngoài nhìn vào, tôi chỉ
nhìn thấy một màu tối đen, bằng ánh sáng của cái đèn (pin) do người ngồi trước
mũi soi sáng, chiếc thuyền câu từ từ lướt nhẹ vào động. Tôi được bỏ xuống đây để
ẩn trốn chờ đêm đến sẽ ra " tàu lớn ". Một tốp 5 người đàn ông chạy
ra đón tôi, ai nấy đều trần như nhộng, không mặc một thứ gì trên người ( sau
này thì tôi cũng như họ vì không khí trong động rất oi bức khó chịu ) họ là những
người đã đến trước tôi từ đêm hôm trước, cũng để chờ để ra tàu lớn. Trời đã
sáng tỏ, nhưng từ phía bên trong động, chúng tôi nhìn ra bên ngoài cũng chỉ
nhìn thấy được một vệt ánh sáng rất mờ, yếu ớt chiếu sáng vào trong động. Lúc
này trong động chúng tôi cũng đã lờ mờ nhìn thấy được nhau, thật là một cảnh tượng
sống động có một không hai mà trong cuộc đời của tôi đã được tận mắt nhìn thấy,
5 ông Adam của thời kỳ hồng hoang, ăn lông ở lỗ, trên người không một mảnh vải
che thân, đang đứng giữa một thạch động thiên nhiên thì thào to nhỏ với nhau,
vì cứ sợ bên ngoài nghe được. Nhưng thật ra thì có hét to lên cũng chẳng có ai
người ta nghe thấy. Không khí trong động đã bắt đầu oi bức dần lên, tôi cũng phải
lột bỏ cái quần cụt mang trên người để trở thành người tiền sử như những người
khác.
Qua câu chuyện, tôi được biết nơi đây là nơi cất giấu dầu chạy máy dùng cho
chuyến vượt biển, mỗi ngày một ít số dầu tồn trữ được tăng dần lên theo với thời
gian, và đây là giai đoạn chót cho nên 5 người họ đã ở lại luôn trong thạch động,
chờ tối nay thì sẽ chuyển sang tàu lớn. Tôi được chia cho một ít cơm với muối
mè đã được vắt cục lại với nhau để đỡ đói chờ đêm đến ra tàu lớn, nằm ngả lưng
trên mặt đá lởm chởm, tôi liên tưởng đến chuyến vượt biển đêm nay và cầu nguyện
ơn trên cho mọi việc được thông suốt, nghĩ đến gia đình, nghĩ đến tương lai
không biết rồi sẽ đi về đâu, tôi bồi hồi tấc dạ. Đêm đến, ánh đèn pin từ cửa động
chiếu ánh sáng vào, cùng với tiếng người nói chuyện với nhau. Rõ ràng là không
phải những người trong ban tổ chức, mọi người nín thở chờ đợi, mọi người đều nằm
ép sát mình xuống mặt đá, không dám cử động mạnh, cũng may là từ phía ngoài
nhìn vào thì chỉ thấy một màu tối đen, nên chúng tôi đã không bị phát giác.
Thời gian chờ đợi tưởng chừng như vô tận, sau cùng thì nhóm người đó cũng bỏ
đi, chúng tôi thở ra nhẹ nhõm. Một anh trong nhóm chúng tôi cho biết, đó là những
người đi "soi mực" ban đêm và anh đoan chắc rằng họ chỉ vô tình đi lạc
vào đây mà thôi. Vào khoảng giữa đêm thì chiếc thuyền câu liên lạc đã trở lại
thông báo cho biết là: tối nay không thể khởi hành được vì có sự trục trặc do
lý do an ninh. Mọi người lộ vẻ thất vọng, nhưng cũng đành phải nhận lấy phần
lương thực cho ngày mai và tiếp tục chờ đợi.
Thời gian chờ đợi trong thạch động
dường như dài vô tận, chúng tôi chỉ có việc ăn xong rồi nằm hoặc đi lại cho
giãn gân cốt, trò chuyện thì hạn chế tối đa vì lo sợ bị phát giác. Một ngày một
đêm đã trôi qua, mọi người nôn nóng chờ tin từ con thuyền liên lạc, bóng đêm lại
phủ đầy bên ngoài cửa động, con thuyền liên lạc đã trở lại và tiếp tục báo tin
buồn vẫn chưa thể khởi hành được, chúng tôi nóng ruột thấy rõ, người đưa tin
thì chỉ làm nhiệm vụ đưa tin và chuyển lương thực cho chúng tôi xong thì rút
lui..
Đêm thứ ba, bóng con thuyền đưa tin đã trở lại, lần này có vẻ hối hả hơn
hai đêm trước, theo sau nó là ba chiếc thuyền câu khác nối đuôi nhau tiến vào
thạch động, tôi đoán là giờ khởi hành đã tới. Quả đúng như tôi dự đoán, chúng
tôi được lịnh "bốc" toàn bộ số dầu chạy máy lên bốn chiếc thuyền câu
cùng với mọi người rời thạch động ra tàu lớn. Giây phút quan trọng đã đến,
chúng tôi lần lượt chuyển hết số dầu lên thuyền, còn chúng tôi thì nằm sát xuống
thuyền bên trên được phủ một tấm nylon để che kín.. Bốn chiếc thuyền câu theo
hàng dọc lặng lẽ rời thạch động hướng về tàu lớn. Khoảng nửa giờ sau, chúng tôi
đã cập được sát tàu lớn đang bỏ neo chờ chúng tôi.
"Tàu lớn" là một chiếc ghe đi biển của ngư dân, dài khoảng 15 thước,
rộng chừng 3 thước, mà dân trong nghề đi biển gọi là "3 lốc đầu bạc",
dầu được chuyển cấp tốc và nhanh chóng lên tàu lớn, chúng tôi cũng đã lần lượt
leo lên tàu lớn. Tàu nhổ neo, chạy ở vận tốc bình thường như là một chiếc tàu
đánh cá bình thường khác đang hoạt động quanh đó.
Tôi leo lên mui tàu tìm chỗ
ngồi, tôi đã giật mình kinh ngạc khi nhìn thấy toàn bộ số người có mặt trên
tàu. Đông quá! Chỗ nào cũng có người ngồi chen chúc, nhưng rồi tôi cũng không lấy
làm quan tâm cho lắm, miễn sao con tàu cứ tiếp tục hướng mũi ra khơi hướng về
Philippines.
"Tháng ba bà già đi biển" câu thành ngữ của những người
hành nghề đánh cá, rất đúng trong trường hợp của chuyến vượt biển đêm nay. Mặt
biển phẳng như gương, bầu trời trong vắt với muôn vì sao lấp lánh. Sau khi đã bỏ
xa khu vực đánh cá trong vùng, con tàu mở hết tốc lực hướng mũi ra khơi. Mặt trời
đã ló dạng từ phía chân trời, trời đã dần sáng tỏ, từ trên mui tàu tôi có dịp
quan sát rõ hơn toàn bộ khung cảnh trên tàu, điều khủng khiếp đập vào mắt tôi đầu
tiên là mặt nước biển chỉ cách bẹ tàu có chừng non 1 thước, chứng tỏ con tàu
đang bị khẳm vì chở quá nặng, con tàu như đang oằn mình trườn tới phía trước với
sức nặng vượt quá mức cho phép.
Trên khoang tàu la liệt là người, trước mũi, sau khoang, chỗ nào cũng có người.
Nắng đã lên cao, tuy mới sáng sớm nhưng nắng giữa đại dương đã mang lại cái
nóng khó chịu trong người rồi, vài người đã cởi áo ra cũng như tận dụng hết tất
cả những gì khả dĩ có thể che nắng được để tránh cái nắng đã bắt đầu gay gắt.
Chỗ duy nhất có thể tránh nắng được là cabin tàu đã được dành riêng cho gia
đình chủ tàu, các hầm tàu bình thường dùng để làm nơi chứa cá sau khi thu hoạch
được, đã được gỡ bốc nắp hầm đi dùng làm nơi tránh nắng, nhưng có lẽ dưới hầm
tàu không khí quá ngột ngạt oi bức nên cứ chốc chốc lại có người trồi lên để hứng
lấy khoảng không khí trống trải trên tàu, có người leo lên khỏi miệng hầm thì
cũng có người lại chui xuống dưới hầm tàu, cái quy trình "cắc cớ" này
cứ thế mà tiếp diễn trong suốt cuộc di hành.
Vài tiếng khóc của trẻ em đã nổi
lên vì khát nước, chủ tàu ra lịnh cung cấp nước uống cho mọi người, người lớn
thì được ba nắp " bi đong ", con nít được gấp đôi trong ngày đầu
tiên, cứ cách khoảng chừng 1 giờ đồng hồ thì lại cấp tiếp cho con nít, người lớn
thì phải chịu nhịn lâu hơn. Vì ngồi trên mui cabin nên tôi đã nói chuyện được với
gia đình chủ tàu, theo như họ cho biết thì chuyến đi đã bị gặp khó khăn do địa
điểm bị tiết lộ ra bên ngoài bởi những người chung vàng cho chuyến đi, do đó
thân nhân của những người này đã "canh me" rất sát chuyến đi. Đó cũng
là lý do khiến chúng tôi phải chờ đợi trong thạch động hết hai ngày đêm, đêm thứ
ba chủ tàu quyết định phải ra đi bằng mọi giá trước khi việc đổ bể. Tàu cập sát
bờ biển nơi "kho gạo" để bốc người, số người dự trù chính thức là gần
60 người. Không ngờ, khi tàu cập vào bờ thì người ở mọi ngõ ngách túa ra leo
lên tàu, và vì không muốn bị lộ nên chủ tàu đành phải chở hết số khách không có
trong danh sách, sau khi kiểm soát lại thì được biết là con số người đã lên đến
hơn 130 người.
Trời đã vào chiều, gió thổi lạnh, một đàn cá heo "dolphin" bơi cập
theo hông tàu trông rất đẹp mắt, mặt trời đỏ ối đang từ từ lặn xuống chân trời,
bóng tối bắt đầu phủ xuống, con trăng thượng tuần treo lơ lửng trên đầu, bóng con
tàu trông thật cô đơn giữa biển cả mênh mông, con người đã trở nên vô cùng nhỏ
bé trước thiên nhiên, đâu đó văng vẳng tiếng cầu nguyện, lúc đầu nhỏ, sau to dần
lên, và không hẹn hầu như mọi người trên tàu đều cầu nguyện theo tôn giáo mình.
Biển hoàn toàn vắng lặng, không có bóng một con tàu nào qua lại, không gian là
một màu đen che phủ đến lạnh người, con tàu vẫn lầm lũi lướt tới, tôi được anh
tài công người của chủ tàu đưa cho một " tấm bạt " loang đầy dầu mỡ để
che lạnh, tôi cùng vài người khác quây quần phía bên trong tấm bạt cho bớt lạnh.
Một ngày một đêm đã trôi qua trong an bình, mọi người thầm cảm tạ ơn trên đã
che chở cho con tàu. Ngày thứ hai, nắng dường như gay gắt hơn, nắng như đổ lửa
xuống những tấm thân đã rộp lên vì bị phỏng nắng, tiếng con nít khóc vang trời.
Nước ! Nước đã trở thành một thứ quan yếu bật nhất trên tàu, chủ tàu đã cử bốn
thanh niên lực lưỡng đứng canh gác khu vực để nước. con nít được ưu tiên tăng
lượng nước uống lên từ 6 nắp lên 8 nắp, nhưng người lớn thì bị giảm xuống chỉ còn
có một nắp mà thôi.
Ngày qua đi, đêm lại xuống, tiếng kinh cầu lại vang lên, thỉnh thoảng lại có tiếng
nôn oẹ vang lên, đoàn lữ hành nằm dã dượi trân mình hứng chịu khí hậu lạnh lẽo
của đại dương về đêm. Ngày hứng chịu cái nắng khủng khiếp, đêm về lại phải đón
nhận cái lạnh, chỉ mới có hai ngày mà những con người khốn khổ đã teo hóp lại,
sức đề kháng dường như đã không còn nữa. Ngày thứ hai cũng trôi qua bình an,
nhưng đoàn người thì đã hoàn toàn đuối sức, ai nằm chỗ đó, phó mặc cho con tàu
muốn đưa mình đi tới đâu thì đi. Trưa ngày thứ ba thì sóng gió đã nổi lên, mặt
biển đã không còn phẳng lặng nữa, gió đã nổi lên kéo mạnh từng cơn, bầu trời vần
vũ, mây đen kéo về đen kịt, từ xa từng ngọn sóng bạc đầu đang kéo tới. Sóng to,
gió mạnh, khiến con tàu chao đảo liên tục, từng cơn sóng cao vời bốc con tàu
lên cao, nhìn xuống dưới là một hố sâu thẳm đến rợn người.
Tôi cùng những người
khác trên mui phải leo xuống khoang tàu, vì quá nguy hiểm nếu cứ tiếp tục ở lại
trên mui tàu. Đang ở giữa trưa mà tôi cứ ngỡ rằng là đang lúc chiều tối vì bầu
trời tối đen, chủ tàu trấn an mọi người rằng: "Đây là chuyện thường thôi,
chỉ là "gió Nam", gió Nam thì mấy người làm nghề biển coi như cơm bữa."
Hư thật ra sao không biết, nhưng mọi người đã quá hoảng sợ và trở nên nhốn nháo,
khiến con tàu đã bị sóng nhồi chao đảo lại thêm tròng trành như muốn lật úp. Chủ
tàu phải hét lớn ra lịnh, không được nhốn nháo, nếu không muốn tàu bị lật thì
ai ở đâu ngồi đó. Con tàu chuyển mình kêu răng rắc như muốn vỡ ra từng mảnh nhỏ,
khiến mọi người đang lúc hoảng sợ càng thêm hoảng sợ, tiếng than khóc, tiếng gọi
nhau vang lên thảm thiết, người ta dồn cục vào với nhau như để tìm sự che chở
cho nhau.
Mưa đã bắt đầu trút xuống, ngày càng nặng hột hơn, mưa giăng trắng xóa cả một
khoảng không gian rộng lớn giữa đại dương, con tàu vẫn trồi lên hụp xuống tưởng
chừng như muốn hất văng những thuyền nhân xuống biển. Con tàu đã phải chuyển hướng,
không thể nào đi theo hướng đã định mà phải cập theo sóng để tránh cho tàu khỏi
bị lật úp, người tài công chính của tàu, người nắm giữ sinh mạng của hơn 130
thuyền nhân, giờ đây đang gồng mình ôm chặt bánh lái với sự giúp sức của hai
người khác để giữ cho con tàu khỏi bị lật, giữ cho con tàu khỏi bị lật đã là một
việc vô cùng khó khăn lắm rồi, việc nhận rõ phương hướng đã không còn được đặt
ra nữa. Con tàu đã thật sự lạc mất phương hướng, mặc cho sóng gió đưa đẩy, mọi
người chỉ còn biết cầu nguyện và phó mặc số mệnh vào sự may rủi mà thôi. Cơn
bão vẫn tiếp tục quần thảo từ trưa đến tối, nhồi con thuyền xoay vòng giữa cơn
bão dữ, những người trên tàu giờ đây đa số đã phải chui vào hầm tàu để tránh khỏi
bị hất văng xuống biển.
Đến tối thì cơn bão chấm dứt, mọi người ngoi ngóp bò dậy, may mắn thay suốt cơn
bão dữ mọi người vẫn được bình an dù đã phải trải qua một ngày kinh hoàng khiến
ai nấy không còn lòng dạ nào nghĩ đến việc tiếp tục di hành thêm nữa.
Có ánh
đèn ! Có ánh đèn ! Một người la to, rồi nhiều người khác cùng la, cứ tưởng như
là mơ. Nhưng quả thật, từ hướng bên phải của con tàu có ánh đèn leo lét khi ẩn
khi hiện do sự trồi lên hụp xuống của con tàu. Tài công hướng mũi con tàu chạy
thẳng vào nơi có ánh đèn, trông thì gần, nhưng thật ra thì tàu phải chạy gần
hai giờ đồng hồ mới đến được. Càng đến gần thì mọi người nhận ra đó là một hòn
đảo, đảo nhưng có ánh đèn, nghĩa là có người sinh sống trên đảo. Mọi người mừng
rỡ quỳ tạ ơn trên đã dẫn dắt con tàu đến nơi bình an.
Con tàu đang ngon trớn, bỗng
nghe đánh..... ầm một tiếng lớn, tiếng máy tàu gầm rú liên hồi, anh tài công la
lớn "Ghe mắc rạng", anh tài công cố gắng bằng mọi cách để xoay chuyển
con tàu nhưng đành bó tay đứng nhìn, nhìn mũi tàu ghếch cao ở phía trước, tôi
đoán là con tàu đã "cưỡi" lên đá ngầm rồi. Từng đợt sóng mạnh mẽ đánh
vào mạng tàu như muốn phá vỡ con tàu ra làm trăm mảnh. Nhìn vào phía trong đảo,
thấy không còn xa lắm, từ chỗ con tàu gặp nạn vào đất liền khoảng chừng vài
trăm thước.
Phải rời tàu đi tìm phương tiện cấp cứu thôi, có người lên tiếng đề
nghị. Thế là một số trai tráng khỏang chừng 20 người trong đó có tôi, tình nguyện
rời tàu đi vào đảo tìm phương tiện cấp cứu, chúng tôi được quấn dây thừng thật
chặt rồi lần theo đó mà vào chỗ nông hơn để đi vào bờ, thật may mắn là vào lúc
đó thủy triều đang rút xuống cho nên chúng tôi có thể đi bộ vào đảo được, dưới
chân tôi là muôn ngàn những con cầu gai cùng với các loại vỏ nghêu, vỏ ốc, mà
tôi đã phải giẫm lên khiến cho lòng đôi bàn chân bị cắt đứt ngang dọc, khiến
đau rát buốt óc. Chúng tôi lần mò, nối đuôi nhau tiến vào đảo, đặt chân được
lên bãi cát trên đảo, chúng tôi nằm nhoài ra nghỉ lấy sức. Hồi tưởng lại cơn
bão vừa qua, tôi vẫn còn hãi hùng và thầm cám ơn ơn trên đã che chở, bằng không
có lẽ giờ này chúng tôi đã vùi thây giữa lòng biển cả rồi. Lấy lại được sức,
đoàn người tiếp tục bước sâu vào trong đảo, riêng tôi thì còn quá mệt nên cũng
chẳng vội vã bước theo họ. Vì lý do đó, cho nên tôi trở thành người cuối cùng ở
sau chót của đoàn người. Bất ngờ, hàng loạt đèn pha từ phía trong đảo bật sáng
chiếu thẳng vào chúng tôi.
Có tiếng hô to...... ai đó, đứng lại, vào đây làm
gì? Lúc đầu chúng tôi nghe không rõ vì gió biển thổi cùng với tiếng sóng, hơn nữa
họ lại nói tiếng Việt phát âm giọng Bắc khiến chúng tôi ngỡ là một thứ tiếng
ngoại quốc, có thể là tiếng Phi. Chúng tôi đã vô cùng mừng rỡ vì biết được mình
đã tới nơi chốn mà mình muốn.
Chúng tôi vừa đưa cả hai tay lên trời, vừa làm dấu cho họ biết rằng chúng tôi đến
đây là do thiện chí và cứ thế tiếp tục bước tới. Nhưng càng đến gần thì chúng
tôi nhận ra rõ ràng là tiếng Việt chứ không phải là tiếng ngoại quốc. Có tiếng
hô qua loa phóng thanh. Tất cả đứng lại..... nếu không sẽ bị bắn bỏ.
Trời ạ......
chúng tôi đã lạc vào đảo của Việt Nam rồi! Chúng tôi lập tức đứng lại, hai tay
vẫn đưa thẳng khỏi đầu, chúng tôi hội ý với nhau là: để qua mặt được họ, chúng
tôi phải nói rằng tàu vượt biên do nhà nước tổ chức ra đi. Khi nói như vậy,
chúng tôi ngầm hai ngụ ý: Thứ nhất, khi biết là chúng tôi ra đi do nhà nước tổ
chức thì họ sẽ tìm phương tiện giúp chúng tôi. Thứ hai, nếu không giúp được gì
thì họ cũng sẽ không làm khó dễ chúng tôi, trường hợp tệ lắm là họ sẽ bắt trở về
đất liền để đi tù, trong trường hợp này thì mọi người sẽ an toàn hơn cả.
Giọng
nói kia tiếp tục vang lên: Tất cả đứng yên tại chỗ đợi lịnh......
Thời gian lặng
lẽ trôi qua trong ngột ngạt. Khoảng chừng hơn 10 phút, thì đột nhiên từ phía bờ
cát một loạt lửa da cam tóe lên cùng lúc với những tràng súng liên thanh nổ rền
trời, tôi giật mình ngó về phía đoàn người. Tôi như bị hoa mắt vì thấy máu từ
các thây người phun ra khắp nơi, thây người đổ ập xuống, tiếng rên la thảm thiết
vang lên như muốn xé tan màn đêm.
Việt cộng giết người..... nghĩ thế xong là
tôi vội vàng bò hết tốc lực để tránh ra xa khỏi đoàn người và đứng lên vùng chạy
về phía biển, vài người khác trong đoàn người cũng cố gắng mang thương tích
vùng chạy ngược trở ra biển, một số chỉ chạy được nửa chừng rồi thì ngã xuống nằm
lại luôn. Bằng tất cả sức lực còn lại trong người, tôi chạy thẳng và nhào người
ra biển, giẫm lên cầu gai, võ nghêu, võ ốc mà chạy càng xa, càng tốt, trong tôi
bây giờ không còn có cảm giác đau đớn do bị cầu gai đâm thủng chân nữa, tôi
hoàn toàn ở trong trạng thái vô cảm. Sau cùng thì tôi cùng vài người khác cũng
đã chạy ra được nơi con tàu mắc cạn. Mọi diễn biến trên đảo đã được chúng tôi
tường thuật lại, thực ra thì mọi người đã nghe được tiếng súng nổ tuy không biết
chuyện gì đã xảy ra, nhưng cũng phần nào đoán ra được là đã có chuyện không
lành. Khi nghe chúng tôi báo cáo lại mọi chuyện, mọi người đã vô cùng hoảng sợ.
Tất cả đàn ông, trai tráng trên tàu, đều được huy động xuống để đẩy con tàu ra
khỏi vùng đá ngầm.
Trời đã phụ lòng người ! Sức của con người làm sao chống chọi lại với sức mạnh
của thiên nhiên, chúng tôi cố đẩy được con tàu xê dịch đi một chút, thì lập tức
các ngọn sóng lại đánh đẩy con tàu trở về vị trí cũ. Đang lúc tất cả đang cố gắng
đẩy con tàu thì súng lại nổ vang rền, đạn bay như rải về phía con tàu.
Có tiếng
thét kinh hãi... có người trúng đạn... có người trúng đạn, tiếp theo là những
tiếng khóc, tiếng kêu gào, khung cảnh rối loạn cả lên, mạnh ai người đó chạy
tìm chỗ nấp, nhưng nấp vào đâu bây giờ, giữa trời nước bao la và con tàu khốn
khổ đang phải hứng chịu những vết đạn từ những con người tàn bạo?
Súng đã thôi
nổ liên hồi, nhưng vẫn tiếp tục nổ cầm chừng, và thỉnh thoảng lại có người gào
lên kêu cứu khi thân nhân mình trúng đạn. Phải ở vào hoàn cảnh trên thì mới có
thể cảm nhận được hết cái không khí dã man, tàn bạo, đầy khủng bố mà không thể
có ngòi bút nào lột tả được hết. Súng vẫn nổ lai rai, đoàn người vẫn cố gắng
trong tuyệt vọng để đẩy con tàu. Nhưng bất lực! Hoàn toàn bất lực! Mọi người đã
kiệt sức vì đói lạnh, da thịt mọi người đã thâm tím đi vì lạnh. Tất cả đều
buông xuôi leo lại lên tàu phó mặc cho trời. Suốt đêm đạn vẫn nỗ, người tiếp tục
chết vì đạn, tiếng kêu khóc vẫn cứ vang lên mỗi khi có người trúng đạn chết. Từ
nơi xa xa, có thấp thoáng ánh đèn chiếu sáng từ một hòn đảo khác bên cạnh.
..............
Trời sáng dần, tiếng kẻng buổi sáng phía trong đảo vang lên. Đoàn người tội
nghiệp dõi mắt về hướng đảo trông chờ phép lạ. Trên đảo nhộn nhịp hẳn lên, bộ đội
chạy tới chạy lui, gia đình thân nhân vợ con của bộ đội cũng chạy ra đứng nhìn
con tàu nghiêng ngả.
Đàn bà, con nít trên tàu được cho lên mui tàu hướng về
trong đảo quỳ lạy xin được cứu giúp.
Tiếng kêu khóc vang dội trời xanh, những
con người Việt Nam khốn khổ đang quỳ lạy những con người Việt Nam khác ngừng
tay bắn giết đồng bào mình. Lịch sử Việt Nam từ bao nhiêu ngàn năm nay chưa bao
giờ có những trang sử ô nhục như thế này.
Ô kìa.... phép lạ xảy ra, có bóng của
những bàn tay vẫy phất như báo cho thuyền nhân biết là họ có thể vào bờ được rồi,
những cái vẫy tay mời gọi từ phía trong đảo đã làm mọi người như sống lại. Ưu
tiên cho đàn bà và con nít vào trước, dây thừng được lấy ra quấn chặt vào mình,
cùng với sự giúp sức của vài thanh niên, sợi dây thừng dài được nối từ con tàu
vào thân của những người xuống tàu lôi vào bờ. Đoàn người rời con tàu xa dần dần
tiến vào bờ, dây thừng vẫn được quấn chặt vào người, cách bờ chừng 100 mét
nhưng vẫn chưa thấy người từ trên bờ ra cứu giúp.
Bỗng nhiên súng lại nổ.
Trời
ơi! súng nổ nhắm vào những người đang quấn chặt dây thừng ngang mình để vào bờ,
thế là chỉ còn có chờ chết mà thôi, làm sao mà có thể chạy thoát được khi sợi
dây oan nghiệt đang trói mọi người lại với nhau. Không một ai còn sống sót qua
trò chơi man rợ của lũ người không tim trên đảo.
Tiếng kêu gào thảm thiết lại
vang lên của những người chồng, người cha, khi nhìn thấy cảnh vợ con mình bị bắn
giết vô cùng man rợ như trên. Đàn bà con nít lại được đưa lên mui tàu chấp tay
hướng vào đảo mà van lạy xin được buông tha, đáp ứng lại những lời van xin thảm
thiết này là những tràng đạn lại nổ tiếp, bóng người đàn bà với tư thế hai tay
chấp vào nhau vì đang quỳ lạy ngã chúi xuống biển từ trên mui tàu, cùng lúc với
các em trẻ bật ngửa ra sau giẫy chết vì trúng đạn. Tàn bạo, man rợ, không thể
nào tả hết.
Tàu vướng đá ngầm rồi, phải rời tàu thật nhanh.
Nắng đã lên cao, từ trong đảo bóng dáng bộ đội Việt cộng chạy lại ụ súng được mọi
người trên tàu nhìn thấy rõ mồn một. Tấm phông che súng được kéo xuống, nòng
súng được hạ xuống. Trời ơi !.....
Một cây súng pháo với nòng súng dài có đến
10 thước đang hiện ra trước mắt mọi người trên tàu. Kinh hãi…. hỗn loạn trên
tàu đã diễn ra, chỉ cần một trái đạn pháo từ khẩu súng đó mà trúng vào con tàu
thì tất cả chỉ còn là tro bụi.
Cầu nguyện, và dọn mình chờ chết, vì sẽ không
còn ai sống sót sau khi trái đạn được khai hỏa bắn trực xạ vào một mục tiêu cố
định là con tàu. Nhưng không, tấm phông đã được kéo lại che đậy khẩu súng, nòng
súng đã được nâng lên cao, không còn ở vị trí sẵn sàng nhả đạn nữa. Bóng dáng bộ
đội lại chạy nhốn nháo, và họ đang lấp ráp chân " đế " của cây súng cối.
Dã man, tàn bạo, bộ đội cộng sản Việt Nam vì tiếc một quả đạn súng pháo lớn,
nên đang thay vào đó là đạn súng pháo nhỏ hơn, và đó là trò chơi giết người của
họ.
Ầm.... quả đạn đầu tiên được bắn ra rớt xuống biển cách con tàu chừng vài thước,
mọi người chưa kịp hoàn hồn thì. Ầm.... quả đạn thứ hai rớt chính xác ngay mũi
tàu, thịt xương văng tung tóe, máu đổ chan hoà, cùng lúc với hàng loạt đạn lớn
nhỏ vang rền khắp nơi, tay chân, máu thịt, vung vãi ở khắp mọi nơi trên tàu,
con người lăn lộn, vật vã với vết thương, khung cảnh của địa ngục trần gian
đang phơi bày trước mắt tôi. Sau tiếng thét đau thương, hãi hùng của người phụ
nữ nằm bên cạnh tôi. Tôi vùng dậy, nhoài mình phóng ra khỏi con tàu, một ngọn
sóng cuốn tôi ra xa cùng lúc với một trái đạn khác rớt ngay giữa thân tàu, con
tàu gẫy đôi và chìm xuống biển. Tất cả sự kiện xảy ra chưa đầy 1 tiếng đồng hồ,
sau khi tiếng kẻng buổi sáng trên đảo vang lên.
Chung quanh tôi xác người chết trôi vất vưởng khắp nơi, những người còn sống
sót thì vẫn phải đang lặn hụp với từng cơn sóng biển, và từ trong bờ đảo những
tên bộ đội Việt cộng khát máu vẫn giương súng nhắm bắn vào những người sống
sót, rất may là nhờ sóng biển nhồi lên hụp xuống mà cái đầu tôi trở thành một mục
tiêu khó bắn trúng của những kẻ sát nhân, có người đang cố gắng bơi ra xa khỏi
tầm đạn, nhưng nửa chừng thì tôi bỗng thấy nằm bất động trôi vật vờ trên biển,
tôi biết rằng họ đã trúng đạn hoặc chết vì vết thương quá nặng.
Thủy triều đã
lên cao, sóng biển không còn đánh mạnh nữa, và cũng chính vì vậy mà những người
sống sót khó tránh khỏi tầm ngắm của lũ sát nhân. Tất cả đã vĩnh viễn ra đi,
tôi cũng đã trôi ra xa khỏi tầm đạn và đang nằm chơi vơi giữa đại dương bao la,
khung cảnh hoàn toàn im lặng đến rợn người. Tôi nhắm mắt lại cầu nguyện, nghĩ đến
gia đình đang còn ở lại đất liền xa xôi, chỉ trong chốc lát nữa thôi những con
cá mập sẽ kéo tới và tôi sẽ chết vì bị cá mập ăn. Nghĩ tới cá mập, tôi hoảng sợ
mở mắt ra.
Và kìa, từ hướng xa tôi nhìn thấy một chiếc thuyền câu đang trôi về
hướng tôi. Thoạt đầu, tôi cứ tưởng bộ đội công sản Việt Nam hạ quyết tâm đuổi tận,
giết tuyệt, nên không dám bơi lại gần. Nhưng nhìn kỹ lại thì tôi nhận ra trên
chiếc thuyền đó hoàn toàn im lặng, không có một sự di động của bất cứ người nào
trên thuyền, tôi hơi vững tâm và cố gắng bơi lại gần thuyền. Nắm được be thuyền
và leo lên thì tôi trông thấy có người trên thuyền, nhưng mọi người đang nằm ở
tư thế ẩn nấp. Thấy tôi leo lên thuyền họ bèn quay lại sụp lạy tôi và xin tha mạng,
tôi không có thời giờ giải thích gì cả, bật ngửa ra nằm bất động trên sàn tàu.
Sau khi đã hoàn hồn và hỏi chuyện nhau thì tôi mới vỡ lẽ ra họ cũng trôi dạt
vào đây và cũng bị bắn như chúng tôi.
Thuyền của họ xuất phát từ Phước Tỉnh, Bà
Rịa, trên tàu gồm 13 người gồm 11 người đàn ông và 2 đứa trẻ, bé chị vào khoảng
9 tuổi, bé em trai khoảng 6 tuổi. Ba của hai em bé này đã bị bắn vỡ đầu nằm chết
ở phía mũi thuyền, một thanh niên khác bị bắn nát mất phần vai hai bên, hai
cánh tay chỉ còn dính liền bởi phần da còn lại trên vai, đang nằm thôi thóp thở
dưới hầm máy, tình trạng cho thấy là anh này sẽ khó thoát chết do vết thương
quá nặng.
Trong khi con thuyền đang trôi vật vờ như thế thì cũng có được 4 người
khác từ chiếc tàu bị bắn chìm trước đó thoát chết, leo lên được con thuyền mà
chúng tôi đang có mặt. Như vậy là tổng cộng số người thoát chết của hai chiếc
thuyền là 16 người, con số trên 130 người đã bị bắn chết vùi thây dưới lòng biển
lạnh.
Sóng lớn quá, có người rơi xuống biển.
Con thuyền cứ tiếp tục trôi vật vờ trên biển, nhưng càng lúc càng rời xa khu vực
nguy hiểm, lúc này đã vào khoảng 10 giờ sáng, nhìn sang bên trái của con thuyền,
chúng tôi nhìn thấy một hòn đảo khác cách chúng tôi không xa lắm. Nghĩa là con
thuyền của chúng tôi đang nằm giữa vị trí của hai hòn đảo. Hòn đảo này tôi đoán
có lẽ là hòn đảo mà chúng tôi đã thấy thấp thoáng ánh đèn từ đêm hôm trước, đêm
hôm bị bộ đội Việt cộng tàn sát.
Chúng tôi quyết định phải rời xa hai hòn đảo
này càng sớm càng tốt nếu còn muốn sống.
(Đây là một quyết định sai lầm mà
chúng tôi đã phải trả giá rất đắt, sẽ được nói đến ở đoạn sau) chúng tôi dùng
mái chèo cố gắng chèo con thuyền ra khơi, vì bình xăng của con thuyền đã bị bắn
vỡ chảy hết dầu. Gió đã đổi chiều, thổi con tàu tội nghiệp của chúng tôi trôi
vào cõi vô định. Con thuyền này dài chừng 6 thước, rộng gần 2 thước, loại thuyền
dùng để đi câu ven bờ biển chứ không thể đi xa hơn. Vậy mà nó cũng đã chở 13
con người vượt được hàng trăm hải lý để đến nơi đây cùng chung số phận như
chúng tôi.
Chiều xuống dần, không gian yên tĩnh, không có một bóng dáng của bất cứ một con
tàu nào khác ngoài con thuyền của chúng tôi lạc lõng giữa đại dương. Tối đến,
chúng tôi phát giác ra một chuyện chết người khác, con thuyền đang bị vô nước từ
phía dưới lườn tàu, thế là chúng tôi tìm cách chặn nước không cho tràn vào, và
cử người canh chừng để tát nước liên tục. Cứ hai người cho mỗi phiên trực tát
nước, số phận của 16 người sống sót trên con thuyền này sẽ tùy thuộc vào hai
người có nhiệm vụ tát nước ra khỏi tàu, nếu chẳng may họ buồn ngủ, hoặc mệt quá
mà chểnh mảng thì con thuyền sẽ chìm và mọi người cũng sẽ chìm theo con thuyền,
nhưng biết làm sao hơn đây! khi mà tất cả mọi người ai cũng còn mang nét mặt
kinh hoàng vì mới vừa phải trải qua một biến cố quá đau thương và..... phó mặc
mọi việc cho Thượng Đế.
Một đêm kinh hoàng trôi qua, người sống phải sống cùng
xác chết trên một diện tích vô cùng chật hẹp của con thuyền, vấn đề vệ sinh
chung đã được đặt ra, là phải giải quyết cái xác chết vẫn còn ở trước mũi thuyền.
Thật là tội nghiệp cho hai đứa trẻ, chúng kêu khóc thảm thiết không cho thủy
táng người cha thân yêu của mình. Chúng tôi cũng đành phải chìu lòng của hai
em, nhưng sang đến ngày thứ ba thì chúng tôi phải giấu lén hai em mà thủy táng
người quá cố để bảo vệ sức khỏe cho những người còn lại.
Sau này biết được hai
em đã lăn lộn khóc lóc vô cùng bi thảm, chúng tôi chỉ còn biết rớt nước mắt dỗ
dành hai em. Tình trạng của anh thanh niên bị thương dưới hầm tàu đã trở nên tồi
tệ hơn vì không có thuốc men chạy chữa, vết thương đã thối rữa, biết là anh
cũng sẽ không qua khỏi, tối ngày thứ ba, sau khi thủy táng người đàn ông ba của
hai đứa trẻ, chúng tôi quyết định nấu cho anh chút cháo trộn với đường cát như
là bữa ăn tối cuối cùng trước khi ra đi, tôi là người đã đút cháo cho anh ăn,
suốt bữa ăn anh cứ liên tục kêu cứu cầu sống, tôi chỉ còn biết gạt lệ an ủi với
anh là cố gắng chút cháo, rồi mọi người sẽ được cứu sống. Sáng hôm sau, chúng
tôi thấy anh đã nhắm mắt lìa đời, thân thể anh tái xanh vì đã không còn máu.
Chúng tôi cũng đã thủy táng anh và cầu nguyện cho linh hồn anh sớm được siêu
thoát.
Đã hơn một tuần lễ lênh đênh trên biển, có một điều thật lạ lùng là chúng tôi
không hề nhìn thấy bất cứ một thương thuyền nào qua lại vùng biển này cả. Không
lẽ chúng tôi đã lạc vào một vùng biển chết? Lương thực còn được mấy kí gạo sau
ngày bị bắn dùng để nấu cháo cầm hơi cũng đã hết, nước uống thì đã hết từ trưa,
cơn đói khát đang đốt cháy ruột gan mọi người. Một ngày đói khát đã bắt đầu và
sẽ còn tiếp tục không biết kéo dài đến bao lâu. Cầu nguyện, chỉ còn có biết cầu
nguyện thôi, tất cả mọi việc đều đã được sắp đặt và an bài do Thượng Đế, con
người đã trở thành vô cùng nhỏ bé trước thiên nhiên, vũ trụ.
Lại một ngày đói khát nữa, cái khát làm cho da thịt như muốn bốc khói, môi nứt
nẻ, đầu óc lúc nào cũng bị ám ảnh bởi thức ăn, nước uống. Tội nghiệp hai đứa trẻ,
suốt ngày chúng cứ nói đến miếng ăn mà trước đây mẹ chúng làm cho chúng ăn, hoặc
thứ nước uống mà chúng thích.
Mọi người như mê loạn đi vì đói và khát. Dường
như lời cầu nguyện của chúng tôi đã thấu tới trời xanh. Chiều hôm đó, trời đổ
cơn mưa, những hạt mưa như những nước cam lồ trong chuyện thần tiên, tưới mát
thân thể chúng tôi, chúng tôi say sưa ngửa mặt lên trời hứng lấy nước mưa mà uống,
lấy thêm "can nhựa" trên tàu hứng lấy nước mưa dự trữ. Nhưng trời mưa
lại dẫn đến một vấn đề khác. Thuyền ngập nước, thế là mọi người xúm vào tát nước
cho thuyền khỏi chìm, rất may là cơn mưa không kéo dài, và còn may hơn nữa là từ
đó cho đến ngày được cứu, cứ vài ngày lại có một cơn mưa ngắn giúp chúng tôi có
đủ nước uống.
Vấn đề nước uống đã được giải quyết, nhưng còn thức ăn? Chúng tôi
đã không còn được bất cứ một thứ gì để có thể ăn được. Cơn đói cứ dày vò, ám ảnh
chúng tôi liên tục, người chúng tôi đã teo lại chỉ còn lớp da bọc lấy xương,
hay nói cho đúng hơn là những bộ xương biết bò, vì chúng tôi không thể nào đứng
vững được nữa.
Một hôm tôi bò xuống hầm máy để cố gắng kiếm thử xem còn gì có
thể ăn được không, tôi trông thấy một chai " xá xị " mới nhìn tôi cứ
tưởng đó là một chai đựng dầu nhớt gì đó của mấy người thợ máy bỏ quên, nhưng
tôi cứ cầm lên và ngửi thử. Một mùi thơm ngào ngạt bốc thẳng vào óc tôi, khứu
giác tôi dường như mở ra tối đa để hít lấy mùi thơm đó. Mùi thơm của mỡ heo,
đúng vậy, chai xá xị kia là một chai dùng để đựng mỡ heo dành để chiên đồ ăn của
các ngư phủ. Tôi thọc ngón tay vào miệng chai và đưa lên miệng mút. Trời ạ! Thật
là một thứ cao lương mỹ vị mà tôi chưa hề được thưởng thức qua bao giờ, tôi cứ
mút lấy mút để cái thứ nước sền sệt nhưng vô cùng tuyệt hảo đó.
Chợt nhớ lại những
người ở trên, đặc biệt là hai đứa trẻ, tôi bò trở lên với chai xá xị, không ai
còn để ý đến tôi vì mọi người đều đã nằm liệt. Tôi bò đến hai đứa trẻ, thò ngón
tay tôi móc một ít mỡ heo nhét vào miệng các em, như là một liều thuốc tiên các
em bừng tỉnh lại, tôi ra dấu cho các em cứ bình tĩnh mà mút mỡ heo, nhắm chừng
các em đã dần dần có chút sinh lực trở lại, tôi trút một ít mỡ heo vào cái chén
nhựa cho các em, còn lại tôi dùng một chiếc đũa thọt vào chai xá xị có mỡ heo
và kêu mọi người lại mút lấy chiếc đũa thần kỳ diệu. Nhờ có chai xá xị mỡ heo
mà chúng tôi có được một bữa tiệc sang trọng nhất trong đời. Và cũng nhờ chút mỡ
heo tuyệt vời đó mà em bé trai có chút sinh lực ngồi nghịch phá cái máy radio
nhỏ xíu bất khiển dụng, cái radio bị vỡ lòi ra mấy sợi dây kẽm nhỏ, một bác lớn
tuổi trên thuyền có sáng kiến uốn mấy sợi kẽm nhỏ đó thành những cái móc câu,
dùng cước cột các móc câu đó lại, cạy các con ốc nhỏ bám theo be thuyền làm mồi.
Kết quả thật bất ngờ khích lệ, buổi đầu tiên bác câu được hai con cá lớn độ bằng
bàn tay người lớn. Cái cột buồm vô dụng được bác ấy chẻ ra từng miếng nhỏ dùng
để nhóm bếp. Cũng may là trên thuyền còn có được cái hộp quẹt còn sử dụng được.
Hai con cá được bác nướng lên chia đều cho mỗi người. Từ đó chúng tôi được chia
ra làm công việc chẻ cột buồm để giữ lửa, bác ấy làm công việc câu cá. Ngày nào
có được vài con cá thì bác chia đều cho mỗi người được một miếng bằng hai ngón
tay, ngày nào không câu được thì mọi người nhịn đói uống nước mưa cho qua cơn
đói.
Chúng tôi đã trôi trên biển 20 ngày qua rồi, nhưng vẫn không nhìn thấy bóng
dáng của một chiếc thương thuyền nào, mỗi khi chiều xuống tôi thường bò lên trước
mũi thuyền nằm trông ngóng bóng dáng một con thuyền. Nằm nhìn những con chim hải
âu săn mồi trên biển mà lòng tôi tan nát, không ngờ rằng cuộc đời của mình lại
kết thúc trong bi thảm như thế này. Sợ nhất là mỗi khi chiều về, màn đêm chuẩn
bị buông xuống, chung quanh là một màu tối đen, không khí chết chóc cứ như lẩn
quẩn đâu đây. Hoặc những khi trời nổi cơn giông, từng lượn sóng cao như mái nhà
bốc con thuyền lên cao, rồi nhận con thuyền xuống đáy, rồi lại bốc lên, cứ như
thế kéo dài hàng mấy giờ đồng hồ liền khiến chúng tôi vô cùng sợ hãi.
Tình trạng
cô đơn giữa đại dương bao la kéo dài cho đến tuần lễ thứ ba thì chúng tôi nhìn
thấy con tàu đầu tiên. Thật là không còn gì để diễn tả được nỗi vui mừng của
chúng tôi, chúng tôi reo mừng, reo la cầu cứu, vì nghĩ rằng chắc chắn là mình sẽ
được cứu. Nhưng, ô kìa ! Chiếc thương thuyền vẫn lạnh lùng rẽ nước phăng phăng
chẳng buồn ngó đến chúng tôi, mặc dù khoảng cách của đôi bên quá gần, gần đến nỗi
chúng tôi có thể nhìn thấy thủy thủ trên chiếc tàu buôn đang tập trung trên
bong tàu để nhìn chúng tôi. Con tàu khuất dạng ở chân trời, chúng tôi ngỡ
ngàng, hụt hẫng, sao lại có chuyện lạ lùng như vậy ? Sao lại có những người vô
lương tâm đến như vậy? Thấy người sắp chết sao không cứu? Ngần ấy câu hỏi cứ
quay trong đầu tôi cho tôi đến khi tôi lịm người đi vì mệt mỏi và thất vọng.
Lại có thêm bóng dáng một chiếc tàu buôn từ đàng xa, như được tăng thêm sức,
tôi cùng vài người khác vùng dậy trèo lên mui ra dấu cầu cứu, và cũng như chiếc
tàu thứ nhất, họ lạnh lùng bỏ đi mặc cho chúng tôi kêu gào đến kiệt sức.
Từ đó
trở đi, mỗi ngày chúng tôi nhìn thấy hàng chục chiếc tàu buôn qua lại trong
vùng nhưng không một chiếc nào chịu cứu vớt chúng tôi. Thậm chí, có ngày chúng
tôi còn nhìn thấy hạm đội của Mỹ đang thao dượt trên biển với máy bay phản lực
lên xuống trên các chiến hạm. Từ dữ kiện này, tôi đoán là chúng tôi đang ở đâu
đó trong vùng vịnh Philipines.
Chiều ngày thứ 30 trên biển, chúng tôi tuyệt vọng
trong mòn mỏi, không còn hơi sức để kêu cứu nữa, mặc cho các tàu buôn vẫn qua lại
nhìn chúng tôi sắp chết. Tôi nằm xoải trên mui con thuyền đưa mắt hững hờ nhìn
chiếc tàu buôn mang hàng chữ Nhật chở đầy những cây gỗ với đường kính hai người
ôm, chiếc tàu buôn đó, cũng như những chiếc khác trước đây, cũng lạnh lùng băng
qua trước mặt chúng tôi mà đi thẳng, tôi cũng chẳng buồn ngó theo làm chi vì
quá chán ngán với thế thái nhân tình. Khoảng độ hai tiếng đồng hồ sau, tôi đang
nằm nhìn mặt trời xuống dần thì bỗng giật mình vì tiếng còi hụ ngân dài, tiếng
còi hụ giữa biển khơi nghe vang dội, tôi nhổm mình dậy nhìn thì trông thấy từ
đàng xa chiếc tàu buôn chở gỗ mà tôi nhìn thấy từ chiều đang tiến về hướng
chúng tôi.
Và..... Trời ạ ! Thủy thủ trên tàu đang nhộn nhịp với dây thừng và
phao cấp cứu, và quan trọng hơn nữa là nó đang giảm dần tốc độ để lựa thế lại gần
thuyền chúng tôi mà tàu chúng tôi không bị lật do sóng vỗ. Dùng thân tàu to lớn
như ngọn núi, chiếc tàu buôn chận lại các ngọn sóng đang vỗ về phía ghe chúng
tôi như một bà mẹ đang bảo vệ đứa con bé bỏng của mình, các thủy thủ đang cố gắng
quăng các sợi dây thừng sang phía chúng tôi. Họ đã cứu chúng tôi, sau khi đã cột
được dây thừng vào thuyền chúng tôi, họ đã kéo được con thuyền cập sát hông chiếc
tàu buôn, chiếc thang dây được buông xuống, chúng tôi từng người một dưới sự phụ
giúp của các thủy thủ trên chiếc tàu buôn, chúng tôi đã lần lượt lên được chiếc
tàu buôn an toàn. Leo lên được bong tàu chúng tôi ngã sóng soài xuống và nằm im
không cử động gì được nữa, vì tất cả sinh lực còn lại đã được dồn lại cho việc
leo lên chiếc tàu buôn to lớn kia sau gần hai tiếng đồng hồ cố gắng thực hiện.
Con thuyền nhỏ bé tội nghiệp của chúng tôi được kéo theo sau chiếc tàu buôn,
nhưng sau đó có lẽ vì lý do an toàn đã được cắt bỏ, nhìn chiếc thuyền bé nhỏ tội
nghiệp đã cưu mang chúng tôi một tháng trời ròng rã trên biển đang từ từ chìm
xuống biển, chúng tôi không hẹn mà ai cũng bật lên tiếng khóc chào vĩnh biệt
con thuyền.
Tối đến, chúng tôi được cho uống nước mát ướp lạnh, một loại nước uống thông dụng
của người Đại Hàn có pha đường. Thật là một cảm giác khó tả, khi cầm ly nước
trong tay nhưng chưa uống được vì quá vui mừng vì đã được cứu sống, tất cả xảy
ra như một giấc mơ.
Sáng hôm sau chúng tôi được cho ăn cháo loãng với nước
tương (xì dầu) chúng tôi ăn như chưa bao giờ được ăn. Nhưng vì sợ chúng tôi bị
bội thực, thủy thủ trên tàu đã không cho chúng tôi ăn nhiều, vậy mà cũng có người
sau khi ăn xong bèn quay qua ói xối xả vì bội thực. Sau khi tìm hiểu, chúng tôi
được biết đây là một chiếc tàu chở mướn của một công ty hàng hải Nhật Bản với
thủy thủ đoàn và thuyền trưởng là người Đại Hàn, chiếc thuyền đang trên đường
chở gỗ từ Pakistan về Okinawa, một hòn đảo nằm về phía cực Nam nước Nhật.
Viên
hoa tiêu cho chúng tôi biết diễn biến của sự việc như sau: Lúc chiều (là lúc mà
tôi nhìn thấy chiếc thuyền) ông ta đã thấy con thuyền của chúng tôi và đã báo
cáo lên thuyền trưởng xin phép được tiếp cứu, nhưng viên thuyền trưởng cho biết
là ông ta không được phép làm vậy, nếu không tất cả nhân viên kể cả ông sẽ bị mất
việc và gặp rắc rối, vì vậy mà chiếc tàu vẫn tiếp tục hải trình như tôi đã thấy.
Tuy nhiên, viên hoa tiêu vẫn cứ tiếp tục van nài thuyền trưởng với lý do là sẵn
sàng bị mất việc, chứ thấy người sắp chết mà không cứu là không được. Hơn nữa,
theo tin tức khí tượng cho biết thì tối nay bão sẽ kéo tới và chắc chắn rằng
con thuyền vượt biên sẽ bị nhận chìm xuống biển. Viên thuyền trưởng đã khóc và
chấp nhận vớt chúng tôi. Vị trí mà chiếc tàu buôn đã cứu chúng tôi nằm cách đảo
Lữ Tống (Luzon) của Philippines khoảng 60 cây số. Và nếu chúng tôi có sống sót
qua cơn bão này thì chúng tôi sẽ trôi ra tới Ấn Độ Dương, vì gió đã đổi chiều
và chúng tôi sẽ khó có cơ hội được cứu thoát vì đó không phải là hải trình của
tàu buôn.
Chúng tôi cũng đã tường thuật lại chuyến vượt biên kinh hoàng của chúng tôi cho
thuyền trưởng và toàn thể thủy thủ trên tàu được biết. Sau khi nghe chúng tôi
tường thuật, thuyền trưởng đã đánh điện vào đất liền thông báo cấp tốc, vì trước
đó qua tin tức ông cũng đã biết được chuyến vượt biên kinh hoàng này do những
người sống sót trước đó tường thuật lại. Số là trong cái đêm kinh hoàng đó, khi
chúng tôi bị bộ đội Việt cộng tàn sát dã man, thì có 8 người đàn ông nhìn thấy
có ánh đèn trên một hòn đảo ở từ phía xa, cách nơi chiếc thuyền bị nạn chừng
vài hải lý, nên thay vì ở lại chờ chết, họ đã lặng lẽ dùng các can nhựa có trên
tàu để bơi về phía hòn đảo có ánh đèn đó để tìm sinh lộ. Họ đã tìm đúng sinh lộ,
vì đó là hòn đảo thuộc chủ quyền của Philippines. Họ được cứu và đưa về đất liền
ngay đêm hôm đó. Đêm đó, quân trú phòng trên đảo được lệnh báo động và sẵn sàng
để cứu vớt các thuyền nhân mắc nạn, họ cho biết là có nghe tiếng súng nổ suốt
đêm, và súng pháo kích sáng hôm đó, nhưng không thể làm gì khác hơn được là đứng
nhìn, vì hòn đảo đang diễn ra cuộc tàn sát thuộc chủ quyền của Việt Nam. Tóm lại,
trong khi chúng tôi vẫn còn đang lênh đênh trên biển đúng một tháng, thì đã có
8 người trên chiếc "ghe ông Cộ" đã được cứu thoát do bơi sang đảo
Phi.
Nhận được tin từ vị thuyền trưởng, Bộ Nội Vụ Nhật Bản đã đồng ý cho chúng tôi cập
bến Okinawa, thuyền trưởng hoan hỷ loan báo tin này cho chúng tôi biết và chúc
mừng chúng tôi thoát nạn. Ba ngày sau, chúng tôi cập bến hải cảng Okinawa. Người
đầu tiên bước lên tàu để đón chúng tôi là một thông dịch viên tiếng Nhật, anh
tên là Nguyễn Gia Hùng, một sinh viên du học tại Nhật Bản trước năm 1975, hiện
đang phụ giúp với hội Caritas Nhật lo giúp đỡ những thuyền nhân Việt Nam đang tị
nạn tại Nhật Bản. Chúng tôi đã vô cùng xúc động vì nghĩ mình đã được tái sinh lần
thứ hai. Chúng tôi bịn rịn bắt tay từ giã các vị ân nhân cứu mạng mình để lên đất
liền làm thủ tục tị nạn, những người này cũng đã khóc khi tiễn chúng tôi bước
xuống cầu tàu. Bước xuống tàu, chúng tôi đã nhìn thấy một rừng phóng viên báo
chí, các hãng thông tấn thế giới đang chờ sẵn để lấy tin tức, một cuộc họp báo
đã được tổ chức liền tại chỗ dưới sự hướng dẫn và thông dịch của các anh thuộc
tổ chức Người Việt Tự Do tại Nhật Bản. Sau đó chúng tôi lên xe bus về trại tị nạn
tại quận Motobucho, một trại tị nạn dành cho người Việt tị nạn được coi là lớn
nhất nước Nhật với vỏn vẹn chừng 300 người Việt hiện đang tạm trú để chờ các quốc
gia đệ tam nhận đi định cư. Ngày hôm sau, tất cả các báo chí, đài truyền hình
Nhật Bản đều cho chạy đi bản tin đầu với hình ảnh và tin tức về chuyến vượt biển
kinh hoàng do tội ác Việt cộng gây nên, và 30 ngày đói khát lênh đênh trên mặt
biển của chúng tôi. Cầm trên tay tờ báo, nhìn vào hình ảnh của chính mình, tôi
đã rúng động không còn nhìn ra được mình nữa, thay vào đó là một bộ xương với hộp
sọ nhô cao lên. Đôi dòng lệ đã âm thầm chảy xuống vì hạnh phúc. Tôi biết mình
đã thực sự sống sót.
Chủ nghĩa cộng sản đã là một thảm họa của nhân loại. Kể từ khi thứ chủ nghĩa
này xuất hiện trên thế giới, nó đã giết chết không biết là bao nhiêu nạn nhân
vô tội. Cuộc vượt biển tìm tự do đầy bi thảm và kinh hoàng của tôi cũng chỉ là
một sự đóng góp vào kho tàng tội ác của chủ nghĩa cộng sản. Điều đáng quan tâm
là hiện nay đất nước và dân tộc Việt Nam vẫn còn bị chìm đắm dưới sự độc tài,
toàn trị của đảng Việt cộng. Chỉ có một con đường duy nhất là phải chấm dứt cái
chế độ man rợ này, không thể nào nói chuyện hoà hợp hòa giải với những con người
với đầu óc chai cứng vì đặc quyền, đặc lợi, mà họ đang thụ hưởng trên từng thân
xác của những con người Việt Nam bất hạnh.
Tâm Thức Việt Nam
Bon Satan chi co TROI diet chung- Ngay ay se toi gan day.
Trả lờiXóaThật xúc động! Cầu mong những người may mắn sống sót của chuyến vượt biên này tìm lại được nhau và cùng tố cáo tội ác CSVN.
Trả lờiXóaTôi không tin...
Trả lờiXóa