14-2-2013
Trên báo Tia Sáng, ông Giáp Văn Dương mới viết một bài rất
đáng đọc, ông đặt câu hỏi: Tại sao ở nước ta mọi người không tin nhau.
Ông
kể chuyện có lúc đã sống ở một nước ngoài 12 năm, thấy người ta bao giờ cũng
tin nhau.
Ông kể, “Tôi và một người bạn đi mua bảo hiểm xe. (Hợp đồng
bảo hiểm viết rằng), nếu mất xe thì sẽ được đền xe mới. Bạn tôi hỏi: “Nếu chúng
tôi bán xe rồi báo bị mất thì sao?” Nhân viên bảo hiểm ngạc nhiên, một lúc lâu
mới nghĩ ra được câu trả lời: “Tôi tin các anh không làm thế.”
Giáp Văn Dương kết
luận: Nước họ giàu mạnh vì họ tin ở con người.
Ngược lại, khi trở về sống ở Việt Nam, ông thấy người ta
luôn luôn nghi ngờ nhau trước, không ai tin ai cả. Lãnh hành lý ở phi trường bị
hỏi giấy tờ, “Tên tôi đây. Ðịa chỉ tôi đây. Hộ chiếu của tôi đây. Vậy sao mà rắc
rối đến vậy? Sao phải xác nhận? Sao phải chứng minh? Sao phải công chứng bản gốc?”
Vào siêu thị thì lúc ra trả tiền phải đi qua hai chặng, trả
tiền rồi, đi hai thước lại có nhân viên kiểm soát hóa đơn, thấy con dấu đỏ “đã
thanh toán” mới được đi qua. Ông Dương hỏi: “Vì sao người Việt không tin nhau?”
Mình không cần nhắc đến tên Việt Nam trong câu hỏi này. Ở
nhiều nước khác người ta cũng không ai tin ai cả.
Nên đặt câu hỏi là: “Trong những
xã hội như thế nào thì người ta dễ tin nhau? Còn những xã hội người ta không
tin nhau thì nó sống thế nào?”
Mình không nên nghĩ oan cho giống dân Việt. Có lần tôi kể
chuyện những thành phố người ta bỏ xe đạp ngoài đường qua đêm, không khóa; như ở
Dubuque, Iowa; hay ở Helsinki, Phần Lan (trước khi di dân Ðông Âu qua). Họ
không lo mất xe, vì tin là mọi người chung quanh đều lương thiện. Nhiều độc giả
đã viết thư nhắc nhở rằng xưa kia ở nước ta cũng vậy.
Một vị cho biết hồi 1950 ở
Sài Gòn ông đã sống như thế. Ðêm không khóa cửa nhà, xe đạp dựng trước nhà cũng
không khóa. Một vị độc giả khác kể chuyện năm 1959 ông dựng cái xe đạp ngoài bờ
sông Sài Gòn đứng hóng mát; sau đó có một người rủ lên xe hơi đi uống bia. Ông
đi tới 11 giờ khuya, trở lại Bến Bạch Ðằng thấy cái xe không khóa vẫn dựng đó
không mất.
Bác Sĩ Nguyễn Tư Mô kể hồi 1955 ông đi trong một phái đoàn y tế xuống
Châu Ðốc chẩn bệnh phát thuốc; lúc vào chợ ăn trưa thì một người trong đoàn bỏ
quên cặp kính mát. Tới buổi chiều, một nhân viên xã mang cặp kính mát đến hỏi có
ai đánh rớt không? Có người lượm được, đem đến trả phái đoàn, vì biết chỉ dân ở
Sài Gòn mới mua được kính mát loại sang như vậy.
Người Việt Nam vốn đã tin nhau chứ chẳng phải không. Vì ông
bà chúng ta vẫn dạy dỗ con cháu sống theo đạo lý, và chính họ sống làm gương.
Trong xã hội nào mọi người cũng sống với những hợp đồng ngầm hiểu, dài hạn, hết
đời này sang đời khác. Các xã hội Á Ðông theo truyền thống Nho Giáo đều có những
“hợp đồng hiểu ngầm” như vậy. Ra đường gặp ai là có thể tin đến 99% rằng người
đó cũng được cha mẹ dạy các quy tắc Lễ Nghĩa Liêm Sỉ giống như mình.
Ngay cả
sau khi nước ta bị Pháp đô hộ, bản Hợp Ðồng Tín Nghĩa vẫn được giữ gìn. Cách sống
của Phan Châu Trinh cũng không khác lối cư xử của Nguyễn Ðình Chiểu hay Hoàng
Diệu. Tư cách đó vẫn truyền qua đến Trần Trọng Kim, Khái Hưng, Nguyễn An Ninh,
hay Phan Văn Hùm.
Nền tảng đạo lý đó chỉ bị phá vỡ từ khi có một chính quyền chủ
tâm xóa bỏ hết nền văn hóa cũ, thay thế bằng “văn hóa vô sản.”
Tại sao các nước Á Ðông khác, ngoài Việt Nam và Trung Quốc,
vẫn giữ được những bản hợp đồng Tín Nghĩa suốt đời này sang đời khác trong hai
ngàn năm?
Phân tích theo lối kinh tế học, thì lý do chính là: Tín
Nghĩa là một cách sống có lợi về lâu về dài. Không ai muốn làm sai bản hợp đồng
tín nghĩa vì nếu nó bị xóa bỏ, chính mình sẽ bị thiệt thòi. Nói rõ hơn: Cuộc sống
của mỗi người sẽ “tốn kém” hơn! Mức tốn kém tăng lên từ một khoản chi tiêu mà
các nhà kinh tế gọi là “phí tổn giao dịch” (transaction costs).
Hãy lấy những
thí dụ mà ông Giáp Văn Dương nêu ra. Một người vào siêu thị mua hàng, trả tiền,
được mang thức ăn về nhà. Trong “giao dịch” kinh tế này, siêu thị cũng phải trả
tiền khi mua hàng, khi thuê mướn cửa hàng, thuê nhân viên, vân vân. Người mua
trả một số tiền lớn bằng số chi phí của siêu thị, cộng với tiền lời mà nếu
không có thì không ai mở siêu thị.
Nhưng trong một xã hội mà người ta không tin nhau thì siêu
thị phải lo đặt hệ thống báo động, phải thuê thêm người canh gác, thêm người kiểm
soát lần thứ hai bên ngoài quầy trả tiền. Tất cả những chi phí mới đó, tất
nhiên, chủ nhân họ tính ngay trong giá bán. Ðó là một thứ phí tổn giao dịch phụ
trội; mà nếu trong xã hội mọi người tin nhau thì không cần.
Nhìn rộng ra, trong
một xã hội mà người ta không tin nhau thì phí tổn giao dịch sẽ tăng vọt trên khắp
mọi mặt. Cả xã hội phải chịu. Thử nhìn vào số lượng công an, cảnh sát ở nước
ta. Tại sao một nước cần nhiều công an như vậy? Vì người ta nghi ngờ nhau.
Chính quyền nghi ngờ dân. Nếu mọi người tin nhau thì mấy trăm ngàn công an cảnh
sát có thể giải ngũ. Những người đó có thể đi làm những việc hữu ích hơn về
kinh tế, như làm kỹ sư, đi kinh doanh, làm ca sĩ, hay trồng cây ăn trái bán. Bởi
vì trong nước vẫn cần rất nhiều kỹ sư, nhiều nhà kinh doanh, nhiều nhà nông có
tài. Lực lượng công an thu hút mất bao nhiêu người ưu tú, đó là một thiệt hại lớn
cho cả nền kinh tế quốc dân.
Làm cách nào để xã hội cùng theo những quy tắc sống có Tín
Nghĩa? Làm cách nào để mọi người nhìn thấy nhau là hãy tin cậy trước khi nghi
ngờ, nghe ai nói gì thì trước hết hãy tin đó là lời nói thật? Có thể thiết lập
lại bản hợp đồng xã hội lấy Tín Nghĩa làm tiêu chuẩn hay không?
Có lẽ chúng ta sẽ tránh không lên giọng hô hào phục hồi môn
đạo đức trong trường học, dù đó là một việc chắc chắn phải làm. Nên tìm ra những
giải pháp thực tế. Mà khi nói đến chuyện thực tế thì có thể tính toán theo lối
kinh tế học. Theo lối nhìn kinh tế học thì muốn người khác tin mình tốt nhất là
làm sao cho người ta biết nếu mình không làm đúng lời hứa hẹn, thì chính mình sẽ
bị thiệt hại rất lớn. Mình có hai đường: Giữ lời hứa có thể bị thiệt, nhưng
cũng có thể không bị thiệt; ngược lại, nếu sai lời thì sẽ bị thiệt hại rất nhiều,
với xác suất 100%!
Nếu mọi người trong một xã hội đều biết như vậy thì hầu hết
sẽ cố giữ Tín Nghĩa, xã hội sẽ thay đổi. Quy tắc này vẫn được sử dụng trong đời
sống kinh tế: Khi chúng ta đi vay nợ, ngân hàng yêu cầu phải có vật cầm thế
“làm tin,” ghi rõ trong hợp đồng. Nếu mình không trả nợ, sẽ mất mát hơn gấp bội!
Khả năng có thể ký hợp đồng mà bản hợp đồng có hiệu lực thi
hành, đó là một nền tảng tạo ra lòng tin tưởng lẫn nhau. Trong các xã hội hoang
dã, việc thi hành hợp đồng là do mỗi người tự làm lấy. Họ dùng vũ lực để thi
hành các bản hợp đồng. Theo lối mafia, ai không làm đúng hợp đồng thì cho một
lưỡi đao, hay một phát súng; vì Mafia không thể ký những hợp đồng hứa hẹn cùng
đi ăn cướp hoặc giết người, ai làm sai sẽ bị kiện!
Còn trong xã hội văn minh thì niềm tin giữa mọi người dựa
trên hệ thống pháp luật. Muốn người ta tin thì cứ làm sao để người ta thấy là họ
có thể kiện mình ra tòa, nếu mình làm sai. Như Thomas Schelling diễn giải: Một
người dễ được tin tưởng khi hắn có thể bị thưa kiện! Một người có thể bị kiện
ra tòa (nếu làm sai lời) thì dễ được người khác tin tưởng hơn. Nếu tất cả đều sống
theo quy tắc đó thì chúng ta có thể tạo nên niềm tin cho cả nước.
Giữ cho guồng máy nhà nước trong sạch là bước đầu tiên để
tái tạo niềm tin. Những người đi hối lộ và ăn hối lộ đều “xé bản hợp đồng” mà mọi
người đã thỏa thuận với nhau. Không những họ làm người dân đút lót mất tiền, mà
họ còn phá nát đạo lý xã hội. Cũng giống như khi có người lái xe ngoài đường mà
bất chấp luật lệ vậy. Nếu nhiều người cứ ngang nhiên lái xe như thế mãi, thì cả
thành phố hay cả nước sẽ không còn luật lái xe. Bản hợp đồng bị xé rồi, mạnh ai
nấy sống. Nạn tham nhũng là thứ làm tiêu hao đạo lý cả xã hội, chưa kể nó làm
cho kinh tế không tiến được đúng tiềm năng.
Trước khi xé bản hợp đồng với xã hội để ăn hối lộ mà biết
trước mình có thể bị thiệt hại rất nặng nếu bị bắt, thì thế nào người ta cũng
ngần ngại không đòi đút lót nữa. Xác suất bị bắt càng cao thì càng bớt tham
nhũng. Án trừng phạt càng nặng, thì càng bớt. Nếu một hệ thống chính trị cứ để
cho xác suất bị bắt thấp, mà việc trừng phạt cũng nhẹ, thì sẽ nuôi đầy tham
nhũng, hối lộ.
Phải làm sao cho xác suất tội tham nhũng bị tố giác càng cao
càng tốt, đó là một cách giảm bớt tham nhũng và tạo niềm tin trong xã hội. Muốn
vậy thì ngoài guồng máy tư pháp công minh chính trực cần phải có nhiều “bộ máy
tư nhân” tình nguyện tham dự việc tố giác tội tham nhũng. Số hội đoàn, trong xã
hội công dân càng phát triển thì càng nhiều người tự nguyện làm công việc đó.
Nhiều người còn sẵn sàng làm công việc đó, vì có lợi cho họ. Ðó là các nhà báo,
khi họ được tự do. Nhà báo nào điều tra ra những vụ tham nhũng và loan tin sẽ
được nhiều người đọc, nhiều người kính trọng. Chính họ sẽ tự nguyện đi tìm ra
những tin tức đó. Còn nếu nhà báo đi điều tra rồi lại bị tù thì hết nói!
Khi bản hợp đồng đạo lý của xã hội bị xé rồi, rất khó tái lập.
Phá nó dễ, xây dựng lại rất khó. Nhưng không phải vì khó mà chúng ta không bắt
đầu ngay. Phải thiết lập một chế độ tự do dân chủ, quyền tư pháp độc lập, xã hội
công dân phát triển, mọi người có quyền tự do hội họp, tự do phát biểu.
Cứ như
thế, trong một vài thế hệ, sẽ không ai cần đặt câu hỏi: Tại sao người Việt
không tin nhau?
Ngô Nhân Dụng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét