Nguyễn Long Việt
2-02-2013
Kính gửi:
2-02-2013
Kính gửi:
Các thành viên khởi
xướng và Ban biên tập
trang Cùng viết Hiến pháp,
Hôm nay, tôi nhận được email của
một người bạn giới thiệu về trang web do các Giáo sư có uy tín khởi xướng và
biên tập, như GS Ngô Bảo Châu, Đàm Thanh Sơn, Nguyễn Đăng Dung. Tôi rất vui.
Tuy nhiên, có thể do mới khởi xướng
nên bài viết cũng chưa nhiều, nhưng những bài viết chỉ được đăng dưới lăng kính
một chiều (bởi các bài hiện nay đăng trên Cùng viết Hiến pháp) chỉ là các bài
viết trên các báo đã bị kiểm duyệt (Việt nam đứng vị trí 172/179 về tự do báo
chí). Việc kiểm duyệt báo chí do Ban tuyên giáo trung ương Đảng, thì nói chung
những bài viết này cũng chỉ nằm trong giới hạn ý chí của Đảng.
Hiến pháp là khế ước xã hội
(social contract) do người dân lập nên. Vì vậy tôi hy vọng rằng, trang Cùng viết
Hiến pháp sẽ đăng những bài viết có quan điểm khác nhau. Hiện nay, các bài như: Hai tử huyệt của chế độ (của
GS Hoàng Xuân Phú), Dự thảo Hiến
pháp do 72 nhân sỹ, trí thức khởi xướng (đến nay đã có gần 2000 người
ký tên) đang được nhiều người ủng hộ.
Cùng viết Hiến pháp có “dám” đăng
2 bài viết đó không?
Xin mạo muội chia sẻ với các GS một
điều là: Người sáng lập ra trang web tranh luận dân chủ phải khách quan, hay
thoát khỏi sự “bám lề”, hay “sợ hãi” mới có thể đem đến không gian tranh luận
dân chủ. Tôi rất ngưỡng mộ những người như Giáo sư Huệ Chi (trang web
boxitvn.net), nhà văn Nguyễn Quang Lập (blog Quê Choa) hay TS Nguyễn Xuân Diện
(blog xuandienhannom.blogspot.com)… bởi họ đã làm được điều đó.
Tôi từng biết GS Nguyễn Đăng Dung
như một trong những người đầu ngành Luật Hiến pháp của Việt Nam. Nhưng dịp sửa
Hiến pháp này tôi cũng chưa thấy giới Luật gia nói chung, hay GS nói riêng có
những đóng góp mang tính đột phá (ví dụ như bài viết của GS Hoàng Xuân Phú), để
người dân ủng hộ và dõi theo.
Là trí thức, theo tôi họ có nghĩa
vụ tiên phong trong việc tìm ra con đường phát triển giúp những người không biết,
và cho đến thời điểm này thì tôi đang thất vọng về điều đó ở nước ta.
Nhân tiện, tôi cũng muốn chia sẻ
với trang Cùng viết Hiến pháp là trọng tâm nhất của lần sửa đổi Hiến pháp lần
này là “Điều 4″.
****************
****************
Điều 4 mới là vấn đề của mọi vấn
đề
Nguyễn Long Việt
Bởi việc quy định Điều 4, rõ ràng
là những cuộc bầu cử dân chủ đều vô nghĩa. 14 người trong Bộ chính trị quyết định
mọi chức danh, từ việc bao nhiêu ghế, ông nào trúng đại biểu quốc hội, ông nào
làm thủ tướng… từ đó sinh ra độc tài, lạm quyền, tham nhũng…
Người có quyền chỉ “sợ trách nhiệm
trước người giao quyền cho họ”, và việc nếu họ có được quyền lực không phải từ
dân thông qua các cuộc bầu cử dân chủ thì họ cũng sẽ không chịu trách nhiệm trước
dân, mà họ chỉ chịu trách nhiệm trước Đảng (theo nghĩa hẹp hơn, trước những người
lãnh đạo Đảng đã “cơ cấu” cho họ).
Việc không quy định Điều 4 là việc
trước sau gì cũng phải làm, là xu thế chung của bất kì quốc gia dân chủ nào.
Không quy định Điều 4, xây dựng chế độ chính trị đa đảng không phải là xóa bỏ sự
hoạt động của Đảng Cộng sản VN, mà khi ấy những người có tài, có đức trong xã hội
sẽ trở thành những lãnh đạo do dân chọn. Và đó cũng là con đường mà những người
có tài, tâm trong Đảng ra tranh cử. Chứ không phải như việc có vị trí nhờ “cơ cấu”
của Đảng thông qua “mối quan hệ, chạy chức chạy quyền” như hiện nay.
Nếu không xóa bỏ được Điều 4, mặc
nhiên Đảng CS lãnh đạo thì những góp ý sửa đổi Hiến pháp chỉ như là thay chút
nước sơn, chứ không phải là thay cái cột sống.
Chỉ khi đa đảng, mọi vấn đề mới
được tháo gỡ, nền tảng đầu tiên để xây dựng nhà nước. Thông qua các cuộc cạnh
tranh chính trị, người dân sẽ chọn những người, Đảng có chính sách tốt cho dân
tộc, nhân dân. Các đảng phái đối lập tồn tại để phản biện lại các chính sách của
đảng cầm quyền, và truyền tải tới người dân.
Hiện nay, những tiếng nói phản biện
chỉ là đơn lẻ, không đủ sức mạnh để phản biện chính sách do vậy thường bị chính
quyền sách nhiễu. Cái quan trọng nhất của phản biện là trong Nghị trường, quyết
định tới việc thông qua chính sách. Chỉ khi đó, các quyền lợi của các đảng “chạm
với quyền lợi của dân” mới được thông qua.
Bởi khi đó, nhân dân sẽ giám sát
những cuộc phản biện minh bạch, và người Nghị sỹ sẽ phải chịu trách nhiệm với
dân thông qua cơ chế giải trình.
Ở Việt Nam hiện nay, tuy có 3 hệ
thống cơ quan quyền lực đại diện cho 3 nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và
tư pháp nhưng 3 quyền này lại tập trung trong tay Đảng, mà cao nhất là Bộ chính
trị. Các lãnh đạo chủ chốt của 3 cơ quan đều là Đảng viên.
Người làm thẩm phán ở các
quốc gia dân chủ không được tham gia đảng phái nào, thì ở Việt Nam, tuy không
quy định trong văn bản luật nhưng trên thực tế họ thương là đảng viên. Và cơ chế
thủ trưởng chế vẫn còn tồn tại thông qua cách thức bổ nhiệm thẩm phán. Như vậy,
Đảng là người “vừa đá bóng, vừa cầm còi”.
Trong khi ở các nước dân chủ, thẩm
phán có quyền ra lệnh trát bắt các chính trị gia nếu vi phạm pháp luật, thì ở
Việt Nam, giả sử phát hiện ra một lãnh đạo sai phạm (lãnh đạo là Đảng viên),
các cơ quan tư pháp bị tước mất quyền tiến hành các thủ tục tố tụng áp dụng đối
với những người khác, mà thay vào đó là việc Đảng tiến hành các quy trình riêng
của mình (như họp để kỷ luật…), từ đó sẽ sinh ra bao che.
Ngoài ra, khi có ý kiến của Đảng
thì các cơ quan tư pháp (Cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án) họp “liên
ngành” để thực hiện ý kiến chỉ đạo của Đảng. Nếu lãnh đạo Đảng cho phép tiến
hành tố tụng, hay đưa ra phương hướng xử lý thì các cơ quan này sẽ phải theo.
Và phiên tòa chỉ như những “vở kịch”.
Cái khó cho Việt Nam?
Nhiều người cứ nhầm tưởng hoặc
“xuyên tạc” rằng Singapore cũng giống Việt Nam, một Đảng lãnh đạo.
Ở Singapore, Đảng Nhân dân hành động
(People’s Action Party) được quyền lãnh đạo nhờ nhân dân bầu ra từ cuộc bầu cử
dân chủ (chiến thắng trong các nhiệm kỳ, từ 1963 nhờ các chính sách) chứ không
phải là do Đảng, hay Ban Chấp hành Trung ương, Bộ chính trị quyết định như ở Việt
Nam. Cũng giống như trong gia đình đông con, thằng A được quyền quản lý gia
đình bởi nó tài năng, chính sách tốt, vì lợi ích chung, chứ không phải là nhà
có con một như Việt Nam.
Ở Việt Nam, thành quả cách mạng
có được cũng nhờ đa đảng (Việt Nam đa đảng đến năm 1988), cho đến khi đó, những
người lãnh đạo luôn theo đuổi, hy sinh cho lý tưởng (mặc dù có không ít sai lầm),
chỉ đến khi Lê Duẩn chèn ép, và sau này Nguyễn Văn Linh dẹp bỏ đa đảng thì chế
độ một Đảng mới sinh ra độc tài, tham nhũng, lạm quyền. Cũng như, trong thời kỳ
đó, do hoàn cảnh chiến tranh nên mặc dù đa đảng, nhưng vẫn chưa có dân chủ thực
sự.
Và cái quan trọng nhất của chế độ
đa đảng là thẩm phán độc lập, không theo đảng phái nào. Một khi, kể cả Lý Hiển
Long phạm tội, tòa District cũng có thể ra trát bắt. Một điều khác biệt với VN,
quan tòa là đảng viên, hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Theo tôi, đa đảng là vấn đề mấu
chốt, quyết định sự lớn mạnh của quốc gia, chống lại độc tài. Đa đảng là điều
kiện cần.
Một khi, chưa xuất hiện đa đảng
thì sẽ không có Aung San Suu Kyi, cũng khó xuất hiện Thein Sen như ở Myanmar để
tiến tới dân chủ. Bà Aung nếu ở VN, chỉ có thể là những cá nhân phản biện nhỏ lẻ
như Luật sư Lê Quốc Quân hay blogger Huỳnh Thục Vy mà thôi. Mọi phản biện từ cá
nhân nhỏ lẻ đều bị dập từ trứng nước.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét