16-7-2011
trích từ "Những Đóng Góp Cho Đất Nước Sau 1975 Của Một Chứng Nhân Lịch Sử: GS Vũ Quốc Thúc"
trích từ "Những Đóng Góp Cho Đất Nước Sau 1975 Của Một Chứng Nhân Lịch Sử: GS Vũ Quốc Thúc"
Nhân kỷ niệm lần thứ 38 Bản Tuyên ngôn Quốc
tế Nhân quyền, Gs VQT [Vũ Quốc Thúc] tổ chức cuộc hội thảo ngày 7/12/1986 tại Paris về vấn đề
thuyền nhân.
Ông mời một số luật sư tên tuổi làm thuyết trình viên như Thẩm
phán Nguyễn Thạch Vân, cựu Bộ trưởng Phủ Tổng thống, Luật sư Vương Văn Bắc, cựu
Bộ trưởng Ngoại giao, Luật sư Trần Thanh Hiệp, cựu bộ trưởng…
Thảm cảnh thuyền
nhân theo phân tích của các luật gia, xuất phát từ quyền tự quyết của nhân dân
bị tước đoạt. Nhà cầm quyền CS bắt dân VN chấp nhận nếp sống trái ngược với
truyền thống văn hóa mình, trái ngược với nguyện vọng dân tộc của mình và tồi tệ
hơn nữa, trái hẳn với nhân phẩm của mình. Người ta không có lối thoát nào khác
nên phải liều mạng ra đi.
Luật sư Vương Văn Bắc kết luận: HĐ Paris 1973 cũng như văn kiện ngày 2/3/1973 của Hội nghị quốc tế về VN đều có chứa đựng một số điều khoản nếu được thi hành đứng đắn đã tránh được thảm họa thuyền nhân. Các thỏa hiệp đó chưa hề mất giá trị. Nếu bây giờ làm sống lại, người ta có hy vọng thiết lập một nền hòa bình lâu dài ở Đông Dương và như vậy sẽ giải quyết một cách dứt khoát thảm trạng thuyền nhân. Nếu thảm họa này kéo dài, hiển nhiên đó là một mối đe dọa thường xuyên đối với nguyên tắc thượng tôn pháp luật. Sau ba tiếng đồng hồ hội thảo, các tham dự viên đã đi đến quyết định thành lập Ủy ban Luật gia Vận động Vãn hồi Hiệp định Paris 1973 do Gs VQT làm chủ tịch.
Luật sư Vương Văn Bắc kết luận: HĐ Paris 1973 cũng như văn kiện ngày 2/3/1973 của Hội nghị quốc tế về VN đều có chứa đựng một số điều khoản nếu được thi hành đứng đắn đã tránh được thảm họa thuyền nhân. Các thỏa hiệp đó chưa hề mất giá trị. Nếu bây giờ làm sống lại, người ta có hy vọng thiết lập một nền hòa bình lâu dài ở Đông Dương và như vậy sẽ giải quyết một cách dứt khoát thảm trạng thuyền nhân. Nếu thảm họa này kéo dài, hiển nhiên đó là một mối đe dọa thường xuyên đối với nguyên tắc thượng tôn pháp luật. Sau ba tiếng đồng hồ hội thảo, các tham dự viên đã đi đến quyết định thành lập Ủy ban Luật gia Vận động Vãn hồi Hiệp định Paris 1973 do Gs VQT làm chủ tịch.
Lúc bấy giờ, thế giới lên án CSVN can dự vào cuộc
chiến ở Campuchea và vi phạm nhân quyền trầm trọng. Nghị quyết của Đại hội Đồng
LHQ năm 1985, yêu cầu quân ngoại nhập (CSVN) phải rút khỏi Miên với 114 phiếu
thuận, chỉ có 21 phiếu chống và 16 nước vắng mặt. Với gần 200 ngàn quân đang bị
sa lầy ở Miên, nền hòa bình và thịnh vượng mà người dân VN mong đợi như là phần
thưởng sau mấy chục năm chiến tranh vẫn còn là giấc mơ. Trong tình thế đó, việc
Vãn hồi HĐ Paris 1973 trở nên cấp bách. Gs VQT cảnh báo các cường quốc đừng nên
lầm tưởng có thể giải quyết riêng biệt vấn đề hòa bình ở Campuchea. Muốn tiến tới
một nền hòa bình thực sự ở Đông Dương cần phải để những người Quốc gia chia sẻ
quyền hành với Đảng CSVN. Giải pháp thích hợp nhất là trở lại HĐ Paris 1973:
không phải mãi mãi chia đôi VN, mà là để hoàn thành sự tái thống nhất trong
tinh thần hoà hợp, hòa giải bằng thương thuyết giữa hai bên đối nghịch.
Vận động vãn hồi HĐ Paris 1973
Ngày 23/5/1987 tại Paris, với sự hỗ trợ tích cực
của Ủy ban Pháp Quốc yểm trợ một nước VN tự do (Comité Francais de soutien pour
un Vietnam libre), Gs VQT đã tổ chức một cuộc hội thảo công khai về việc trở lại
HĐ Paris 1973. Nhân dịp này Ủy ban Luật gia VN đặt lại vấn đề hiệu lực của HĐ
Paris 1973 (Comité de juristes Vietnamiens pour la remise en vigueur des
Accords de Paris de 1973) đã công bố chính thức Bạch thư (Libre blanc) với tựa
đề Guèrre et Paix en Indochine (Chiến tranh và hòa bình ở Đông Dương). Để trở lại
HĐ Paris 1973, nhằm giải quyết các vấn đề nan giải của các nước ĐD, Bạch thư
kêu gọi Pháp đứng ra triệu tập một hội nghị Paris mở rộng, bao gồm 5 Ủy viên
Thường trực Hội đồng Bảo An LHQ, bốn nước nguyên thành viên Ủy hội Quốc tế Kiểm
soát Đình chiến ĐD năm 1954, hai phe Quốc Cộng của ba nước Việt Miên Lào.
Cuộc hội thảo do Gs VQT chủ tọa cùng với Dân biểu
Georges Mesmin, Chủ tịch Ủy ban Ngoại giao Hạ Nghị Viên Quốc hội Pháp, đồng thời
cũng là Thị trưởng Quận 16 Paris. Và dân biểu Pierre Bas, Chủ tịch Ủy ban
Pháp Quốc Yểm trợ một nước VN Tự do. Ông này là thành viên của Đảng
Rassemblement pour la Republique (RPR) đang nắm đa số tại Quốc hội. Ngoài chức
vụ dân biểu quốc hội, ông Pierre Bas còn là thị trưởng của Quận 6 Paris. Mục
đích của buổi hội thảo là giải quyết vấn đề VN kèm theo vấn đề Cam Bốt trên cơ
sở lý luận, không thể giải quyết vấn đề hòa bình Cam Bốt một cách riêng rẽ, vì
tình hình Cam Bốt với tình hình VN và Lào gắn bó mật thiết với nhau.
Trong hồi ký, Gs VQT thừa nhận: “Dù không tin
tưởng triển vọng HĐ Paris có thể sống lại, nhưng ít ra nó cũng đem lại cho mọi
người một tia sáng nào đó, khi mọi người còn đang ở trong đường hầm. Ít nhất
người ta thấy có một giải pháp cụ thể hơn là những bản tuyên ngôn thông thường.
Chúng ta là người VN tự do, chúng ta có bổn phận đòi vãn hồi HĐ Paris 1973, vì
chúng ta bị tước đoạt một quyền thiêng liêng được minh thị bảo đảm trong hiệp định.
Đó là quyền tự quyết của nhân dân MN. Nếu chúng ta không yêu sách, thì ai đòi hỏi
cho chúng ta? Giải pháp do anh em luật gia đưa ra dựa trên những nguyên tắc quốc
tế công pháp, trên những bản hiệp định vẫn còn giá trị theo công pháp quốc tế.
Chúng tôi chỉ còn trông mong vào sự phù hộ, tin tưởng ở sự huyền diệu của Đức Mẹ.
Nếu đạt được phần nào kết quả cũng là nhờ ơn thiên điển mà thôi”.
Lúc bấy giờ, một số người không muốn TT Thiệu
trở lại vai trò tổng thống VNCH trong đó có Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy không tán
thành việc coi ông Thiệu là đại diện của phe quốc gia. Trái lại ông Thiệu lại
tha thiết với việc làm sống lại HĐ Paris. Còn phần HK, trước buổi hội thảo một
ngày, một luật sư HK tên David Steinman xin gặp ông Thúc,nói rằng ông là cộng sự
viên của ông Moynihan, Thượng Nghĩ Sĩ Đảng Dân chủ HK Tiểu bang New York, đại
diện không chính thức của Kissinger. Luật sư Steinman cho biết HK không muốn
ông Thiệu tham dự công khai cuộc hội thảo, vì nó có thể gây nên nhiều ngờ vực,
thắc mắc với những bình luận không có lợi cho HK. Ông đề nghị để ông Thiệu tham
dự ở hậu trường, đừng ra mặt. Ông Thúc đề cập với David Steinman về “công cuộc
đấu tranh của chúng tôi để biến VN thành một nước tự do”. Ông ta nói “Sớm muộn
gì quý vị cũng phải dùng biện pháp “civil disobedience” (bất tuân dân sự). Phải
có phong trào bất tuân dân sự trên toàn quốc mới hy vọng thay đổi được chế độ cộng
sản độc tài”.
Sau đó ít lâu, vào khoảng 12/1987 một buổi
hội thảo tổ chức ở Paris và lần này có sự tham dự của Kissinger. Ông ta giải
thích sở dĩ HK không phản ứng sau khi Hà Nội vi phạm hiệp định vì HK đang bị
lúng túng vì vụ Watergate. Dư luận HK cho rằng Mỹ đã rút hết quân rồi, việc BV
vi phạm hiệp định Paris xâm chiếm MN, là việc nội bộ của VN, HK không thể nào
nhân cơ hội này trở lại VN để bị lôi cuốn một lần nữa vào “vũng bùn chiến
tranh” và Quốc hội Mỹ cũng không chấp nhận. Như vậy sự ngăn chận không cho ông
Thiệu lên tiếng công khai để đặt lại vấn đề VN cũng là điều dễ hiểu. Mặc dù vậy,
ông Thiệu cũng vẫn tiếp tục sang Paris nhiều lần sau đó. Năm 1993, ông cỏn gởi
thư đến Tổng Thư ký LHQ yêu cầu thi hành trở lại HĐ Paris 1973.
Quả thật, lúc đó HK đã có nổ lực giúp giải
quyết vấn đề hòa bình ở Cam Bốt. Kết quả là một hiệp định Paris thứ hai ra đời
ngày 23/10/1991 để giải quyết cuộc chiến ở Cam Bốt. Hiệp này rập khuôn HĐ Paris
1973 về VN, cũng được một hội nghị quốc tế thừa nhận, bao gồm 5 nước Ủy viên
Thường trực HĐBA, 6 nước ASEAN và các nước khác là Nhật, Úc, Gia Nã Đại, Ấn Độ
và Zimbabwean ký trước sự hiện diện của ông Boutros Boutros Ghali. Năm 1993 cuộc
tổng tuyển cử dân chủ tự do có sự quan sát của quốc tế được tổ chức, từ đó Cam
Bốt trở thành một quốc gia với thể chế dân chủ đa đảng.
HĐ Paris 1991 được ký kết giữa bốn bên
người Khmer: Hun Sen (Khmer Đỏ thân VN) Khieu Samphan (Khmer Đỏ thân TC), Son
Sann (Khmer Tự do) và thái tử Ranaridh Sihanouk (trung lập). Theo đó, việc vãn
hồi HĐ Paris 1973 chỉ có thể thành tựu, nếu có sự hiện diện của 4 phe VN, họ chịu
ngồi lại với nhau là: CSVN, VNCH, MTGPMN và Thành phần Thứ Ba. Việc này vô cùng
khó khăn và cũng không có cường quốc nào có khả năng dàn xếp được, vì thế việc
Vãn hồi HĐ Paris 1973 thất bại.
Soạn thảo Hiến Chương 2000
Sau khi nhận thấy công cuộc vãn hồi HĐ Paris
1973 không đem lại kết quả, trong khi HK chuẩn bị bình thường hóa bang giao với
Hà Nội. Việc này đã xảy ra năm 1995 sau những biến chuyển ở Liên Xô và Đông Âu.
TT Bill Clinton tuyên bố “Tôi tin rằng việc bình thường hóa và tăng cường các
cuộc tiếp xúc giữa người Mỹ và người VN sẽ thúc đẩy sự nghiệp tự do ở VN như đã
từng diễn ra ở Đông Âu và Liên Xô trước đây”. Sự kiện này khiến Gs VQT nhớ đến
nhận định của L/sư David Steinman sau cuộc hội thảo về HĐ Paris 1973 ngày
23/5/1987. Ông ta đưa ra ý kiến: muốn thay đổi thể chế chính trị ở quốc nội VN
cần phải tạo được một phong trào bất tuân dân sự. Phong trào đó phải được nhiều
người trong chính quyền yểm trợ, đặc biệt ở thủ đô, nói cách khác không thể
trông cậy vào sự can thiệp từ bên ngoài.
Cuộc cách mạng dân chủ hóa ở nhiều nước cựu CS
như Tiệp Khắc, Ba Lan Đông Đức, Hung Gia Lợi…đã xảy ra nhờ sự tranh đấu ôn hòa
nhưng quyết liệt của nhân dân, trong đó phương pháp bất tuân dân sự là lợi khí
chủ yếu. Nhân dân không tuân lịnh nhà cầm quyền, đòi hỏi nhà cầm quyền phải
thay đổi thể chế, rốt cuộc, nhà cầm quyền đã phải nhượng bộ trước áp lực của quần
chúng. Một cuộc cách mạng nhung (Velvet Revolution) ở Tiệp Khắc có thể xảy ra ở
VN được không? Gs Thúc trả lời: Có.Tại sao? Vì có nhiều khả năng quần chúng
càng ngày càng ý thức được quyền tự do thiên bẩm của mình, rồi chính những kẻ cầm
quyền cũng càng ngày càng có khả năng phản tỉnh, bỏ dần đường lối độc tài của họ
để đi tới đa nguyên đa đảng.
Theo Gs Thúc, cần phải làm một cái gì để
kích thích lòng ham muốn tự do, đánh thức tinh thần tranh đấu của những người
trong nước. Bắt đầu với những người cầm quyền, nghĩa là những đảng viên CS. Phải
làm cho họ ý thức được xu hướng của thế giới là dân chủ hóa, là tiến tới thể chế
chính trị đa đảng đa nguyên trong đó người dân thực sự làm chủ đất nước. Khẩu
hiệu chế độ “của dân, do dân, vì dân” không phải khẩu hiệu suông nữa. Giáo sư
Nguyễn Bá Long ở Canada đưa ra ý kiến soạn thảo một hiến chương giống như Hiến
chương 77 của các nhà dân chủ Tiệp Khắc dưới sự lãnh đạo tinh thần của học giả
Vaclav Havel. Gs Thúc tán thành, tham gia soạn thảo hiến chương và nhận làm đồng
sáng lập viên của Phong trào Hiến chương 2000. Bản HC 2000 được công bố tại
Paris ngày 25/11/2000. Đây là một tuyên ngôn về dân chủ tự do dưới hình thức một
bản hiến chương, để làm cơ sở cho một thể chế chính trị mới, một xã hội dân chủ
mới.
Từ chủ trương trên, Gs VQT cho rằng chỉ còn cách là đấu
tranh với Đảng CSVN để tranh thủ nhân dân. Sau 30/4/1975, người Việt tự do
không còn phương tiện nào cả thì làm sao tiếp cận và tranh thủ được nhân dân.
Tuy nhiên, chế độ đương quyền ở VN đã tồn tại, bằng cách “luồn lách”, “đổi màu
như con tắc kè” “lột xác” như rắn độc.
Sau khi LX giải thể, Hà Nội lập tức thay
đổi đường lối chạy theo Bắc Kinh, không ngần ngại chấp nhận mọi yêu sách của
BK. Như vậy VN đã phải trả một giá rất đắt để được BK yểm trợ. Càng ngày họ
càng thấy bá quyền của TQ nặng nề hơn, dù muốn chống lại cũng không phải dễ
dàng gì, trong khi nguyện vọng thay đổi thể chế vẫn tồn tại trong nhiều tầng lớp
nhân dân. Những tiến bộ kỹ thuật trong lĩnh vực truyền thông mang lại cho họ niềm
hy vọng mới: chính quyền độc tài không thể nắm được bộ máy thông tin cũng như bộ
máy giáo dục quần chúng một cách tuyệt đối nữa. Bằng mọi cách người dân có thể
thu nhận tin tức từ các nơi đưa lại. Nhờ đó, sớm muộn gì người dân các nước độc
tài cũng sẽ trở lại truyền thống, vẫn thiết tha đến tự do, đến tư hữu.
Ngoài ra, nhân số của đảng cầm quyền
ngày càng tăng vì có nhiều đặc quyền đặc lợi. Nhưng khi đảng viên đông quá làm
sao chia “chiếc bánh chung” cho toàn thể mọi người được. Lúc đó giữa các đảng
viên sẽ xuất hiện sự phân biệt: có những phe được lợi nhiều vì chiếm được những
địa vị “béo bở”, còn đại đa số đảng viên khác không được như vậy. Hiện tượng
“trâu buộc ghét trâu ăn” sẽ xuất hiện ngay trong nội tâm chế độ, trong đầu óc
các đảng viên. Phe nọ phe kia tranh giành nhau quyền lực, nên tìm cách mị
dân, dùng những khẩu hiệu như tự do, dân chủ, bảo vệ những kẻ “thấp cổ bé miệng”
chống lại sự lạm dụng quyền hành, chống lại sự tham nhũng. Đó là mầm móng đưa tới
sự thay đổi thể chế chính trị. Tệ nạn tham nhũng khiến cho đảng CS sẽ phải sụp
đổ để nhường cho một chế độ dân chủ hơn.
Giải pháp để ngăn ngừa thảm họa chiến tranh tái diễn: VN xây dựng
chế độ Dân chủ Tự do và trung lập
Ngày 10/7/2011 vừa qua, tại Bắc Kinh, Đô đốc Mike
Mullen, Tổng TMT (Liên quân) Quân đội HK tuyên bố: “Mỹ đã hiện diện lâu dài
trong khu vực Á Châu, vì thế HK cũng có một trách nhiệm lâu dài. Sự hiện diện
lâu dài của chúng tôi trong khu vực đã rất quan trọng với các đồng minh của
chúng tôi trong nhiều thập kỷ qua và sẽ tiếp tục đóng vai trò như vậy”. Lời xác
định sự hiện diện của HK ở Biển Đông, khiến người ta nhớ lại nhận định của Gs
VQT ngày 24/7/2008 về hai cuộc vận động ngoại giao cấp cao của chính quyền Hà Nội
về chủ quyền của VN trên các đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Cuối tháng 5/2008, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh cầm
đầu phái đoàn sang Bắc Kinh, gồm hầu hết các đảng viên cao cấp đang chủ trì các
ban ngành trong bộ máy đảng. Phó trưởng đoàn là Phạm Gia Khiêm, Uỷ viên Bộ
Chính trị, vừa là Phó thủ tướng kiêm nhiệm Bộ trưởng Ngoại giao. Còn phía Đảng
CSTQ, những lãnh tụ cao cấp như Thủ tướng Ôn Gia Bảo cũng như Bộ trưởng Ngoại
giao công khai vắng mặt. Còn Chủ tịch Hồ Cẩm Đào chỉ dự buổi tiếp tân, theo
đúng nghi lễ mà thôi. Qua cách xử sự này, cho thấy nhà cầm quyền BK phân biệt
rõ ràng hai tư cách Đảng CSTQ và Chính phủ TQ. Do đó các vấn đề đất đai như
Hoàng Sa và Trường Sa phải dành lại cho chính phủ hai nước điều đình với nhau.
Để tránh sự đổ vỡ trong quan hệ giữa hai đảng Cộng
sản VN và TQ, bản Thông cáo chung đề ngày 1/6/2008 nhắc lại khẩu hiệu 16 chữ đã
được hai bên long trọng chấp nhận làm cơ sở giao hữu. Một điều đáng để ý là
ngay trong phần nhập đề, bản Thông cáo chung đã gián tiếp xác định một nguyên tắc
rất quan trọng. Đó là mỗi bên, TC cũng như CSVN, có quyền tùy theo hoàn cảnh đặc
thù của nước mình chọn một đường lối riêng để tiến tới đích chung là thực hiện
xã hội chủ nghĩa. Nói rõ hơn là VN không bó buộc phải theo đúng kiểu mẫu cũng
như chính sách đối nội và đối ngoại của TQ (miễn là không chống TQ) Nếu theo
đúng nguyên tắc này, quan hệ giữa VN với TQ, rồi đây, có thể giống như một tiền
lệ lịch sử là quan hệ giữa Nam Tư cũ (Yougoslavie) với Liên Xô cũ. Không những
Nam Tư theo thể chế tự quản mà lại còn công khai đứng trong hàng ngũ các quốc
gia không liên kết, nghĩa là đứng trung lập trong cuộc chiến tranh lạnh giữa HK
và LX.
Cuộc vận động ngoại giao ở BK đã mang lại
cho chính quyền Hà Nội một bài học, đó là các nhà lãnh đạo TQ dù theo ý thức hệ
CS vẫn đặt quyền lợi cụ thể của nước họ lên trên hết.
Chỉ mấy ngày sau khi phái đoàn Nông Đức Mạnh trở
về nước, một phái đoàn chính phủ VN do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cầm đầu đã lên
đường đi HK. Cùng đi với Dũng có Phạm Gia Khiêm, người đã tham dự cuộc vận động
ngoại giao ở BK. Các quan sát viên vô tư không khỏi thắc mắc: Tổng thống HK G.
W. Bush sắp hết nhiệm kỳ. Người kế vị có thể là John McCain hay Barack Obama.
Dù sáng kiến cuộc gặp gỡ Mỹ-Việt này do phía nào chăng nữa, ta vẫn phải tìm hiểu
tại sao người ta không đợi tới sau cuộc bầu cử tổng thống Mỹ? Phải có một
nguyên nhân nào đó khiến cho cuộc gặp gỡ trở nên khẩn trương. Tất nhiên nguyên
nhân này liên can đến cả hai nước HK và VN.
Về phần VN, việc nổi bật là vụ TQ coi quần đảo
Trường Sa của họ rồi. TQ cũng không giấu diếm ý định sát nhập Trường Sa, Hoàng
Sa và một quần đảo nữa thành huyện Tam Sa trực thuộc tỉnh Hải Nam. Rồi một số
cơ quan truyền thông tiết lộ là TQ đã thiết lập tại đảo Hải Nam một căn cứ hải
quân tối tân có thể dùng làm cứ điểm cho nhiều tàu ngầm và cả hàng không mẫu hạm.
Như vậy TQ không che dấu tham vọng khống chế toàn khu vực Biển Đông, là một đường
tiếp tế có tầm quan trọng chiến lược đối với họ.
Về phần HK, Bản thông cáo chung được phổ biến
sau cuộc gặp gỡ giữa ông G. W. Bush và Nguyễn Tấn Dũng rất ngắn ngũi và mơ hồ.
Tuy nhiên có một điểm khiến chúng tôi chú ý đặc biệt, đó là: HK xác nhận nguyên
tắc tôn trọng sự toàn vẹn lãnh thổ của VN. Khẳng định lập trường này, rõ ràng
là ông G.W.Bush muốn gởi một tín hiệu cho TQ: Các ông đừng vội coi quần đảo Trường
Sa là đất của các ông trong khi chủ quyền quần đảo này còn đang là nội dung
tranh chấp giữa các ông với nhiều nước trong vùng.
Những sự việc vừa duyệt lại, đưa chúng tôi tới
kết luận: tình hình quân sự-chính trị ở Biển Đông đang trở nên nghiêm trọng. Một
lần nữa quê hương chúng ta lại lâm vào thế kẹt, giữa hai lực lượng quốc tế đối
nghịch. Đã đến lúc không thể úp úp mở mở được nữa mà phải minh bạch hóa thế đứng
của mình. Những người Việt tha thiết với tiền đồ của dân tộc, có trách nhiệm
làm mọi cách để ngăn ngừa thảm họa chiến tranh tái diễn trên quê hương đã quá
đau khổ của chúng ta. (Paris, ngày 24/7/2008 – VQT)
Giải pháp mà Gs VQT đề nghị từ ba nước là VN phải
dân chủ hóa thể chế chính trị để kiện toàn nền độc lập của xứ sở. VN đi theo
con đường trung lập để tránh va chạm với HK và TQ. Sau đó vận động thành lập một
khu vực trung lập với các nước láng giềng ở phương Nam TQ. Nhờ đó VN dễ dàng
hòa nhập với các nước chung quanh Biển Đông để cùng nhau thương lương với TQ về
chủ quyền các quần đảo trong khu vực.
Qua nhận định trên của Gs VQT, cho thấy từ giữa năm 2008, thái độ của giới lãnh đạo Đảng CSTQ đối với CSVN bắt đầu lạnh nhạt, khác xa cuộc họp thượng đỉnh Thành Đô năm 1990. Trong 18 năm sau đó “VN đã phải trả một giá rất đắt để được BK yểm trợ Đảng CSVN”. Những gì mà Đảng CSVN đã nhượng bộ và thỏa thuận với TQ, đặc biệt là Biển Đông, từ nay nếu có sự tranh chấp, sẽ được giải quyết giữa hai chính phủ theo công pháp quốc tế.
Chính phủ có thể làm được việc này, nhưng Đảng CSVN
đành bó tay, vì đã có sự đồng thuận ở cấp cao nhất giữa TT Phạm Văn Đồng và TT
Chu Ân Lai năm 1958 cũng như giữa Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Tổng Bí thư Đỗ
Mười năm 1990. Điều khó khăn là Đảng CS đang lãnh đạo toàn diện đất nước.
Trong Đại hội XI Đảng CSVN vừa qua, Tổng Bí thư
Nông Đức Mạnh và Ủy viên Bộ Chính trị Phạm Gia Khiêm đã bị loại, trong khi TT
Nguyễn Tấn Dũng vẫn còn tại vị. Nguyễn Phú Trọng, một người thân TQ được bầu
làm Tổng Bí thư Đảng, chỉ là một bóng mờ trước TT Nguyễn Tấn Dũng mà quyền thế
ngày càng gia tăng. Rồi đây, ông Trương Tấn Sang đảm nhận vai trò Chủ tịch nước,
Hiến pháp có thể được tu chính để Chủ tịch nước đảm nhận vai trò lãnh đạo tối
cao của nước VN, chớ không phải Tổng Bí thư Đảng CSVN. Chủ tịch nước và thủ tướng
đều là dân biểu được nhân dân bầu chọn và được Quốc hội là cơ quan quyền lực
cao nhất tấn phong, sẽ thay mặt nhân dân thương thảo với chính phủ TQ mới có cơ
may thu hồi cương thổ. Chớ Đảng CS không làm gì được.
Sự khẳng định của HK duy trì sự hiện diện lâu dài
ở châu Á, cho thấy đã đến thời điểm “VN không thể úp úp mở mở được nữa”. Xin nhắc
lại, trong diễn văn trước phiên họp cuối cùng của Đại hội Đặc biệt toàn Đảng CS
Liên Xô hồi cuối tháng 6/1988, Tổng Bí thư Gorbachev cho rằng hệ thống Xô Viết
sẽ sụp đổ nếu họ không kịp thời nhận thức bài học của lịch sử và nhìn nhận những
sai lầm trầm trọng mà các lãnh tụ đảng đã theo đuổi trong mấy chục năm qua. Ông
nhấn mạnh “sự sống còn của chủ nghia xã hội đang nằm trong tay của đảng. Nó sẽ
chết nếu chúng ta không trao quyền cho nhân dân”.
Tình thế VN đã chín muồi. Đảng CSVN dính
liền với Công hàm năm 1958 của TT Phạm Văn Đồng và 16 chữ vàng từ 1990 đến nay.
Nếu Quốc hội không sớm giải quyết, thì đến lượt nhân dân phải hành động qua các
đòi hỏi ôn hòa để bảo vệ giang sơn của tiền nhân để lại. Tính đến nay đã có ba
kiến nghị của những trí thức nổi tiếng trong nước lên tiếng đòi Bộ Chính trị Đảng
CSVN phải có hành động. Đại đa số đảng viên CS không có những địa vị “béo bỡ”,
sẽ cân phân giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi đất nước, họ sẽ đồng tình với
toàn dân để cứu nước, vừa để bảo vệ sự an toàn cho cá nhân và gia định họ.
Lòng yêu nước của nhân dân và sự thức tỉnh của
những người CS trong bộ máy chuyên chính sẽ tạo ra cuộc Cách mạng Nhung, chuyển
đổi thể chế độc tài chuyên chính sang một nền Dân chủ đích thực tại đất nước
ta, trong đó các nhân quyền và quyền tự do căn bản phải được tôn trọng, vừa
đoàn kết toàn dân bảo vệ đất nước
.....
Lê Quế Lâm
* Trí Nhân Media đặt tựa đề
Làm chính trị giống chơi đánh cờ! Là trò chơi trí tuệ!
Trả lờiXóaChỉ khác một điều, đánh cờ thắng thua, hay hoà, thì xếp quân cờ lại, chơi tiếp, cục diện cuộc chơi trước không còn dấu tích trong ván mới!
Làm chính trị (kể cả có chiến tranh)thì không có chuyện, bày lại quân cờ, mà chỉ có chơi tiếp. Kết quả lúc trước còn nguyên ảnh hưởng tới cục diện và cách chơi lúc sau.
Thành thử nghe mấy bộ xương khô chợ chiều Bolsa hay Paris mà đòi VẬN ĐỘNG VÃN HỒI HIỆP ĐỊNH PARIS 1973, thì quả là chuyện chiêm bao thấy núi.
Bộ ngoại giao Mỹ còn ngữi không được cái xú uế của vụ này,thì ai mà ngữi cho nổi.
Thôi viết nhiêu thôi, để khỏi đụng chạm tới cá nhân, mang khẩu nghiệp.