Giang chuyển ngữ
2003
Trí Nhân Media: James "Jim" Webb, cựu tiểu đoàn trưởng TQLC ở Việt Nam, cựu Bộ Trưởng Hải Quân, và đắc cử Thượng Nghị Sĩ tiểu bang Virginia vào năm 2007. Ông cũng là nhà báo, nhà văn với nhiều tác phẩm và bài viết nổi tiếng.
Tháng 8-2009 trên đường viếng thăm Miến Điện và các quốc gia vùng Đông Nam Á, ông đã ghé thăm Việt Nam. Sau đó ông đã nhiều lần trở lại Việt Nam và rất quan tâm đến tình trạng vi phạm nhân quyền trầm trọng tại đây..
Vì đã từng tham chiến tại Việt Nam nên ông đã có cái nhìn rất thấu đáo về cuộc chiến Việt Nam, về Hiệp định Paris - một Hiệp định đã đưa cả nước Việt Nam vào gọng kìm của chủ nghĩa CS, không lối thoát như ngày hôm nay.
Liên Hiệp Hoà Bình Đông Dương, điều hành bởi David Dellinger và được quảng bá bởi Jane Fonda và Tom Hayden, phối hợp chặt chẽ với Hà Nội suốt năm 1973 và 1974, đi khắp các khuôn viên đại học Mỹ, tập hợp sinh viên để chống lại điều được cho là những con ác quỷ trong chính quyền miền Nam Việt Nam.
Biết giải thích như thế nào với những đứa con của tôi rằng
khi tôi mười mấy, đôi mươi, những tiếng nói ồn ào nhất của những người cùng thời,
lại nhằm mục đích phá nát những nền tảng của xã hội Hoa Kỳ, để xây dựng lại một
xã hội dựa theo quan điểm đầy tự mãn của họ.
Giờ đây nhìn lại, ngay cả chúng ta, những người đã trải qua
giai đoạn này, cũng không hiểu được tại sao lại có những kẻ với trình độ học vấn
cao, đa số sinh ra từ gia đình thượng lưu, lại có thể gieo rắc những tư tưởng
phá hoại làm nhiễm độc bầu không khí của thập niên 1960 và những năm đầu của thập
niên 1970. Ngay cả Quốc Hội cũng bị nhiễm những con vi khuẩn nầy.
Sau khi tổng thống Nixon từ chức vào tháng Tám 1974, cuộc bầu cử mùa thu năm ấy
mang lại 76 tân dân biểu thuộc đảng Dân Chủ và 8 thượng nghị sĩ. Đại đa số những
dân cử chân ướt chân ráo này đã tranh cử dựa trên cương lĩnh của Mc Govern.
Cái gọi là Quốc Hội hậu Watergate nầy diễu hành vào thành phố với một sứ mệnh
vô cùng quan trọng mà sau này trở thành điểm tập hợp cho cánh Tả của Hoa Kỳ: chấm
dứt sự giúp đỡ của nước Mỹ dưới bất kỳ hình thức nào cho chính quyền đang bị
vây khốn Nam Việt Nam. Không nên lầm lẫn ở chỗ này – đây không phải là sự kêu
gào thanh niên Mỹ đừng đi vào cõi chết của những năm trước đây. Những người
lính Mỹ cuối cùng đã rời Việt Nam hai năm trước rồi, và đã tròn bốn năm không
có một người Mỹ nào bị tử trận.
Bởi những lý do mà không một viện dẫn lịch sử nào có thể bào chữa được, ngay cả
sau khi quân đội Mỹ triệt thoái, cánh Tả vẫn tiếp tục những cố gắng để đánh gục
nền dân chủ còn phôi thai của Nam Việt Nam.
Liên Hiệp Hoà Bình Đông Dương, điều hành bởi David Dellinger
và được quảng bá bởi Jane Fonda và Tom Hayden, phối hợp chặt chẽ với Hà Nội suốt
năm 1973 và 1974, đi khắp các khuôn viên đại học Mỹ, tập hợp sinh viên để chống
lại điều được cho là những con ác quỷ trong chính quyền miền Nam Việt Nam.
Những đồng minh của họ trong Quốc Hội liên tục thêm vào những
tu chính án để chấm dứt sự viện trợ của Hoa Kỳ cho những người Việt Nam chống cộng,
ngăn cấm cả đến việc sử dụng không lực để giúp những chiến binh Nam Việt Nam
đang bị tấn công bởi các đơn vị Bắc Việt được khối Sô Viết yểm trợ.
Rồi đến đầu năm 1975 Quốc Hội Watergate giáng một đơn chí tử xuống các nước
Đông Dương không cộng sản. Tân Quốc Hội lạnh như băng từ chối lời yêu cầu gia
tăng quân viện cho Việt Nam và Cam Bốt của tổng thống Gerald Ford. Ngân khoản
dành riêng này sẽ cung cấp cho quân đội Cam Bốt và Nam Việt Nam đạn dược, phụ
tùng thay thế, và vũ khí chiến thuật cần thiết để tiếp tục cuộc chiến tự vệ.
Bất chấp sự kiện là Hiệp Định Paris 1973 đặc biệt đòi hỏi phải
cung cấp “viện trợ để thay thế trang thiết bị quân sự vô giới hạn” cho Nam Việt
Nam, đến tháng Ba phe Dân Chủ trong Quốc Hội biểu quyết với tỷ số áp đảo,
189-49, chống lại bất kỳ viện trợ quân sự bổ sung cho Việt Nam và Cam Bốt.
Trong các cuộc tranh luận, luận điệu của phe Tả phản chiến gồm toàn những lời
lên án các đồng minh đang bị chiến tranh tàn phá của Hoa Kỳ. Và đầy những hứa hẹn
về một tương lai tốt đẹp cho các quốc gia nầy dưới sự cai trị của chế độ Cộng Sản.
Rồi dân biểu Christopher Dodd , tiêu biểu cho sự ngây thơ hết thuốc chữa của
các đồng viện, lên giọng đầy điệu bộ “gọi chế độ Lon Nol là đồng minh là
làm nhục chữ nghĩa…Tặng vật lớn nhất mà đất nước chúng ta có thể trao cho nhân
dân Cam Bốt là hòa bình, không phải súng. Và cách tốt nhất để đạt được mục đích
này là chấm dứt viện trợ quân sự ngay lập tức.”
Trên chiến trường Việt Nam việc chấm dứt viện trợ quân trang, quân cụ là một
tin làm kinh ngạc và bất ngờ. Các cấp chỉ huy quân đội của miền Nam Việt Nam đã
được đảm bảo về việc viện trợ trang thiết bị khi người Mỹ rút quân – tương tự
như những viện trợ Hoa Kỳ vẫn dành cho Nam Hàn và Tây Đức – và đảm bảo rằng Hoa
Kỳ sẽ tái oanh tạc nếu miền Bắc tấn công miền Nam, vi phạm hiệp định Paris
1973. Bây giờ thì họ đang mở mắt trừng trừng nhìn vào một tương lai bất định khủng
khiếp, trong lúc khối Sô Viết vẫn tiếp tục yểm trợ cho Cộng Sản Bắc Việt.
Trong lúc quân đội Nam Việt Nam, vừa choáng váng vừa mất tinh thần, tìm cách điều
chỉnh lại lực lượng để đối phó với những thiếu thốn trang thiết bị cần thiết,
quân miền Bắc được tái trang bị đầy đủ lập tức phát động ra cuộc tổng tiến
công.
Bắt giữ được nhiều đơn vị bị cô lập, quân miền Bắc tràn xuống
vùng đồng bằng trong vòng có 55 ngày. Những năm về sau tôi phỏng vấn các người
lính miền Nam Việt Nam còn sống sót trong các cuộc giao tranh, nhiều người trải
qua hơn chục năm trong các trại tập trung của cộng sản sau khi cuộc chiến chấm
dứt.
Điệp khúc này không bao giờ chấm dứt:
“Tôi không còn đạn
dược.”
“Tôi chỉ còn 3 quả đạn pháo cho mỗi khẩu một ngày.”
“Tôi không còn gì để
phát cho binh sĩ của tôi.”
“ Tôi phải tắt máy truyền tin, bởi vì tôi không thể
nào chịu đựng được nữa những lời kêu gọi xin tiếp viện.”
Phản ứng của Hoa Kỳ trước sự sụp đổ này cho thấy có hai nhóm khác nhau, và điều
này vẫn còn tiếp tục được thấy rõ trong nhiều vấn để chúng ta đang đương đầu
ngày nay.
Đối với những kẻ từng trốn tránh cuộc chiến và lớn lên tin rằng đất nước chúng ta
là quỷ dữ, và ngay cả khi họ thơ mộng hoá những ý định của người cộng sản, những
tuần lễ sau cùng này đã chối bỏ trách nhiệm của mình trong sự sụp đổ này bằng
những phê phán quân đội Nam Việt Nam đầy tính sa lông, hay là công khai reo mừng.
Ở trung tâm Luật Khoa của đại học Georgetown nơi tôi đang theo học, việc Bắc Việt
trắng trợn ném bỏ các điều cam kết về hòa bình và bầu cử trong hiệp định Paris
1973, và tiếng xe tăng của Bắc Quân trên đường phố Sài Gòn được xem như là một
cái cớ để thực sự ăn mừng.
Sự chối bỏ trách nhiệm vẫn còn tràn lan trong năm 1997, nhưng thực ra cái kết
cuộc này chính là mục tiêu của những cố gắng không ngừng nghỉ của phong trào phản
chiến trong những năm theo sau sự rút quân của Mỹ. George McGovern, thẳng thắn
hơn nhiều người, công khai tuyên bố với người viết trong lúc nghỉ khi thâu hình
cho chương trình “Crossfire” của CNN vào năm 1995.
Sau khi tôi đã lý luận rằng cuộc chiến rõ ràng là có thể thắng
được ngay cả vào giai đoạn cuối nếu chúng ta thay đổi chiến lược của mình, ứng cử
viên tổng thống năm 1972, người tình nguyện đi Hà Nội bằng đầu gối, bình luận,
“Anh không hiểu là tôi không muốn chúng ta chiến thắng cuộc chiến đó sao?” Ông
McGovern không chỉ có một mình. Ông ta là phần tử của một nhóm nhỏ nhưng vô
cùng có ảnh hưởng. Sau cùng họ đã đạt được điều họ muốn.
Có lẽ không còn minh chứng nào lớn hơn cho không khí hân hoan chung quanh chiến
thắng của Cộng Sản là giải thưởng điện ảnh năm 1975, được tổ chức vào ngày 8
tháng 4, ba tuần trước khi miền Nam sụp đổ. Giải phim tài liệu hay nhất được
trao cho phim Hearts and Minds, một phim tuyên truyền độc ác tấn công những giá
trị văn hóa Hoa Kỳ cũng như những cố gắng của chúng ta để hỗ trợ cho sự chiến đấu
cho nền dân chủ của miền Nam Việt Nam.
Các nhà sản xuất Peter Davis và Bert Schneider (người thủ diễn một vai trong câu chuyện của david Horowitz) cùng nhau nhận giải Oscar. Schneider thẳng thừng trong việc công nhận sự ủng hộ những người Cộng Sản của mình.
Các nhà sản xuất Peter Davis và Bert Schneider (người thủ diễn một vai trong câu chuyện của david Horowitz) cùng nhau nhận giải Oscar. Schneider thẳng thừng trong việc công nhận sự ủng hộ những người Cộng Sản của mình.
Đứng trước máy vi âm ông ta nói:
- ”Thật là ngược đời khi chúng ta đang
ở đây, vào thời điểm mà Việt Nam sắp được giải phóng.”
Rồi giây phút đáng
kinh ngạc nhất của Hollywood xảy ra – dù giờ đây đã được cố tình quên đi-.
Trong lúc quốc gia Việt Nam, mà nhiều người Mỹ đã đổ máu và nước mắt để bảo vệ,
đang tan biến dưới bánh xích của xe tăng, Schneider lôi ra một điện tín được gởi
từ kẻ thù của chúng ta, đoàn đại biểu Cộng Sản Việt Nam ở Paris, và đọc to lên
lời chúc mừng cho phim của mình. Không một phút giây do dự, những kẻ nhiều quyền
lực nhất của Hollywood đứng dậy hoan nghênh việc Schneider đọc bức điện tín
này.
Chúng ta, những người đã từng chiến đấu ở Việt Nam hoặc là những người ủng hộ
những cố gắng ở đó, nhìn lại cái khoảnh khắc này của năm 1975 với sự sửng sốt
không nguôi và không bao giờ quên được. Họ là ai mà cuồng nhiệt đến thế để đầu
độc cái nhìn của thế giới về chúng ta? Sao họ lại có thể chống lại chính những
người đồng hương của mình một cách dữ tợn đến thế? Sao họ có thể đứng dậy để
hoan nghênh chiến thắng của kẻ thù Cộng Sản, kẻ đã làm thiệt mạng 58000 người Mỹ
và đè bẹp một đồng minh chủ trương ủng hộ dân chủ? Làm sao có thể nói rằng
chúng ta và họ đang sống trong cùng một đất nước?
Từ lúc ấy đến nay, không một lời nào của Hollywood nói về số phận của những con
người biến mất sau bức màn tre của Việt Nam. Không ai đề cập đến những trại tập
trung cải tạo mà hàng triệu chiến binh miền Nam Việt Nam đã bị giam giữ, 56000
người thiệt mạng, 250000 bị giam hơn 6 năm, nhiều người bị giam đến 18 năm.
Không người nào chỉ trích việc cưỡng bách di dân, tham nhũng, hay là chế độ công
an trị mà hiện vẫn còn đang tiếp diễn. Thêm vào đó, ngoại trừ phim Hamburger
Hill có ý tốt nhưng kém về nghệ thuật, người ta chỉ hoài công nếu muốn tìm một
phim thuộc loại có tầm vóc diễn tả các chiến binh Hoa Kỳ ở Việt Nam với đầy đủ
danh dự và trong những khung cảnh có thật.
Tại sao? Bởi vì cộng đồng làm phim, cũng như những kẻ thuộc loại đỉnh cao trí
tuệ trong xã hội, chưa bao giờ yêu thương, kính phục, hay ngay cả thông cảm với
những con người đã nghe theo tiếng gọi của đất nước, lên đường phục vụ. Và vào
lúc mà một cuộc chiến âm thầm nhưng không ngừng nghỉ đang diễn ra về việc lịch
sử sẽ ghi nhớ đất nước chúng ta tham dự ở Việt Nam như thế nào, những kẻ chế diễu
chính sách của chính quyền, trốn lính, và tích cực ủng hộ kẻ thù, cái kẻ thù mà
sau cùng trở nên tàn độc và thối nát, không muốn được nhớ đến như là những kẻ
quá đỗi ngây thơ và lầm lẫn.
Giữa những người dân Mỹ bình thường, thái độ của họ trong khoảng thời gian rối
ren nầy lành mạnh hơn nhiều. Đằng sau những tin tức bị thanh lọc và những bóp
méo về Việt Nam, thực tế là những công dân của chúng ta đồng ý với chúng ta ,
những người đang chiến đấu, hơn là với những kẻ làm suy yếu cuộc chiến đấu này.
Khá thú vị là điều nầy đặc biệt đúng với tuổi trẻ Mỹ, mà giờ đây vẫn còn được
mô tả như là thành phần nổi loạn chống chiến tranh.
Như được tường trình lại trong bài Ý Kiến Quần Chúng, những kết quả thăm dò của
Gallup từ năm 1966 cho đến khi Hoa Kỳ chấm dứt sự tham dự cho thấy tuổi trẻ Mỹ
thực ra ủng hộ cuộc chiến Việt Nam lâu bền hơn bất cứ lứa tuổi khác. Ngay cả
cho đến tháng 1 năm 1973, khi 68 phần trăm dân Mỹ trên 50 tuổi tin rằng chuyện
gởi quân sang Việt Nam là một sai lầm, chỉ có 49 phần trăm những người tuổi từ
25 đến 29 đồng ý. Những phát hiện nầy cho thấy giới trẻ nói chung rõ ràng là
không cực đoan, điều này đã được củng cố thêm bằng kết quả bầu cử năm 1972 –
trong đó lứa tuổi từ 18 đến 29 ưa thích Richard Nixon hơn là George McGovern bằng
tỷ lệ 52 so với 46 phần trăm.
Tương tự như vậy, mặc dù trong quá khứ những người chống đối này, mà ngày nay
đang thống lĩnh giới báo chí và giới khoa bảng, đã khăng khăng nói ngược với thực
tế, sự xâm nhập vào Cam Bốt năm 1970 đã được ủng hộ quần chúng mạnh mẽ. – Sự
xâm nhập này đã gây ra sự phản đối rộng khắp ở các sân trường đại học, kể cả một
vụ xung đột làm cho bốn người chết ở Kent State University. Theo những kết quả
thăm dò dư luận của Harris gần 6 phần 10 dân Mỹ tin rằng sự xâm nhập vào Cam Bốt
là đúng đắn. Đa số được hỏi ý kiến, trong cùng bản thăm dò này vào tháng 5 năm
1970, ủng hộ tái oanh tạc miền Bắc, một thái độ cho thấy sự bác bỏ hoàn toàn
phong trào phản chiến.
Các cựu chiến binh Việt Nam, dù bị bôi bẩn thường xuyên trên phim ảnh, trong
các bản tin, và trong các lớp học, như là những chiến binh miễn cưỡng và thất bại,
vẫn được những người dân Mỹ bình thường tôn trọng.
Trong một nghiên cứu toàn diện
nhất từ trước đến giờ về những cựu chiến binh Việt Nam (Harris Survey, 1980, ủy
quyền bởi Veterans Administration),
- 73 phần trăm công chúng và 89 phần trăm cựu
chiến binh Việt Nam đồng ý với câu phát biểu “Vấn đề rắc rối ở Việt Nam là quân
đội chúng ta được yêu cầu chiến đấu trong một cuộc chiến mà các lãnh tụ chính
trị ở Washington không để cho họ được phép chiến thắng”,
- 70 phần trăm những người
từng chiến đấu ở Việt Nam không đồng ý với câu phát biểu “Những gì chúng ta gây
ra cho nhân dân Việt Nam thật đáng xấu hổ.”
- Trọn 91 phần trăm những người đã từng
phục vụ chiến đấu ở Việt Nam nói rằng họ hãnh diện đã phục vụ đất nước,
- và 74
phần trăm nói rằng họ thấy thoải mái với thời gian trong quân đội.
- Hơn nữa, 71
phần trăm những người phát biểu ý kiến cho thấy họ sẵn sàng chiến đấu ở Việt
Nam một lần nữa , ngay cả nếu biết rằng cái kết quả chung cuộc vẫn như thế và sự
giễu cợt sẽ đổ lên đầu họ khi họ trở về.
Bản thăm dò này còn có cái gọi là “nhiệt kế đo cảm giác,” để đo lường thái độ của
công chúng đối với những nhóm người khác nhau, với thang điếm từ 1 đến 10. Cựu
chiến binh từng phục vụ ở Việt Nam được chấm điểm 9.8 trên thang điểm này. Bác
sĩ được 7.9, phóng viên truyền hình 6.1, chính trị gia 5.2, những người biểu
tình chống chiến tranh 5.0, kẻ trốn quân dịch và chạy sang Canada được cho 3.3.
Trái ngược với những câu chuyện huyền thoại được dai dẳng phổ
biến, hai phần ba những người phục vụ ở Việt Nam là quân tình nguyện chứ không
phải bị động viên, và 77 phần trăm những người tử trận là quân tình nguyện.
Trong số những người tử trận: 86 phần trăm là da trắng, 12.5 phần trăm người Mỹ
gốc Phi Châu và 1.2 phần trăm thuộc các chủng tộc khác.
Những cáo buộc rất phổ biến như là chỉ có dân thuộc các nhóm
thiểu số và người nghèo được giao cho những công tác khó khăn trong quân đội
khi ở Việt Nam là điều sai lạc. Sự bất quân bình trong cuộc chiến, thực ra chỉ
đơn giản là do những thành phần đặc quyền đặc lợi trốn tránh trách nhiệm của
mình, và chính những người này kể từ thời gian ấy đã kiên trì bôi bẩn những
kinh nghiệm về cuộc chiến để nhằm tự bào chữa cho chính mình, phòng khi sau này
bị lịch sử phán xét.
Thế còn những kẻ không những đã hiểu sai ý nghĩa một cuộc
chiến, mà còn không hiểu nổi dân tộc của mình, những kẻ thuộc thành phần tinh
hoa của xã hội đó bây giờ ra sao? Bây giờ họ đang ở đâu nếu không phải ở trong
tòa Bạch Ốc? Trên vấn đề lịch sử quan yếu này, cái vấn đề đã xác định thế hệ của
chúng ta, họ dấu mình thật kín. Họ nên dấu mình như thế.
Đối với những kẻ đã đem cuộc hành trình tuổi trẻ đánh bạc trên cái ý tưởng rằng
tổ quốc mình là một lực lượng ác quỷ, sau khi nhận ra sự ngây thơ của mình trong
những năm sau năm 1975, chắc họ phải có một cảm giác rất kinh khủng. Thật là
sáng mắt sáng lòng cho những kẻ đã tỉnh thức, đã tự vượt qua được phản ứng chối
tội, để chứng kiến cảnh tượng hàng trăm ngàn người dân miền Nam Việt Nam chạy
trốn “ ngọn lửa tinh nguyên của cách mạng “ trên những con tàu ọp ẹp, sự chạy
trốn mà chắc chắn 50 phần trăm sẽ vùi thây ngoài biển, hoặc là nhìn thấy những
hình ảnh truyền hình của hàng ngàn chiếc sọ người Cam Bốt nằm lăn lóc trên những
cánh đồng hoang, một phần nhỏ của hàng triệu người bị giết bởi những người Cộng
Sản “giải phóng quân.”
Thực vậy, chúng ta hãy thẳng thắn nhìn nhận. Thật đáng tủi nhục biết bao khi
nhìn vào khuôn mặt của một thương binh, hay là nghe diễn từ tốt nghiệp của một
học sinh thủ khoa người Mỹ gốc Việt Nam, mà người cha quá cố của em đã chiến đấu
bên cạnh những người Mỹ, cho một lý tưởng mà bọn họ công khai mỉa mai, chế diễu,
và xem thường. Và thật là một điều đáng xấu hổ khi chúng ta có một hệ thống
chính quyền đã để cho em học sinh đó thành công nhanh chóng ở đây, mà lại không
thực hiện được một hệ thống như vậy ở quê hương của em.
James Webb
Giang chuyển ngữ
TVVN.org
TVVN.org
Người VN ở Mỹ thật HÈN khi không phản ứng mạnh, quyết liệt với bọn DoThai Mỹ CS như thằng Hayden và con đĩ Jane.
Trả lờiXóaChính chúng nó làm chết Nam VN-Chúng ta 4000 năm nữa không thể quên thù này.