22-01-2013
Chủ trương nhuộm đỏ Việt Nam của đảng CS rõ như ban ngày khi đẩy hàng triệu thanh niên miền Bắc mang súng đạn của Nga, Tàu vào cưỡng chiếm miền Nam.
Pháp rút sớm hay rút muộn, Mỹ đến hay không đến cũng chẳng ảnh hưởng gì đến mục tiêu thiết lập một nhà nước CS trên toàn lãnh thổ Việt Nam nhất quán từ ngày thành lập đảng CS vào năm 1930.
“Độc lập dân tộc”, “Thống nhất đất nước” chỉ là những chiêu bài. Nếu không dùng khẩu hiệu “Chống Mỹ cứu nước” bộ máy tuyên truyền tinh vi của đảng cũng thừa khả năng để nặn ra hàng trăm chiêu bài, khẩu hiệu hấp dẫn khác để kích thích và lợi dụng lòng yêu nước. Bộ máy tuyên truyền của đảng nhồi nhét vào nhận thức của các thế hệ Việt Nam, nhất là thế hệ sinh ra và lớn lên sau cuộc chiến, rằng cuộc chiến tranh gọi là “Chống Mỹ cứu nước” trước 1975 là cuộc chiến chính nghĩa, “đánh Mỹ” là bước kế tục của chiến tranh chống Thực Dân Pháp.
Đó là lý luận của kẻ cướp.
Đảng CS không chỉ cướp đất nước mà cướp cả niềm tin và khát vọng của những người đã chết.
Đảng CS không chỉ cướp đất nước mà cướp cả niềm tin và khát vọng của những người đã chết.
Tôi chưa đọc Bên Thắng Cuộc đầy đủ để viết về tác phẩm này. Có thể khi đọc xong cả hai cuốn, sẽ nhận xét Bên Thắng Cuộc với tư cách một người miền Nam đã sống những năm khắc nghiệt ở Sài Gòn, “sinh viên chế độ cũ”, đi kinh tế mới, vượt biển và trăn trở cùng đất nước. Bài viết này chỉ bàn đến luận điểm mà các báo lề đảng dùng khi viết về tác phẩm Bên Thắng Cuộc.
Hầu hết báo lề đảng đều đòi hỏi “Hãy
tôn trọng lịch sử”, vâng, nhưng lịch sử nào?
Một trong những đề án lớn của các
quốc gia thuộc khối CS Liên Xô cũ không chỉ phục hồi kinh tế, ổn định xã hội
sau gần 80 năm sống trong chế độ toàn trị kinh hoàng, mà còn là viết lại lịch sử.
Các nhà sử học Nga dành nhiều năm để đánh giá các sự kiện diễn ra từ thời
Vladimir Lenin đến Mikhail Gorbachev và cho đến nay vẫn còn đang đánh giá. Nhiều
chi tiết như các điều khoản bí mật trong hiệp ước Molotov-Ribbentrop, việc chiếm
đóng các quốc gia vùng Baltic, sự giúp đỡ của đồng minh trong thế chiến thứ
hai, v.v... đã bị xóa trong sử CS. Một số sự kiện có nhắc đến nhưng lại cố tình
viết sai thủ phạm như vụ tàn sát 22 ngàn sĩ quan Ba Lan tại rừng Katyn vào
tháng 3 năm 1940 được viết là Đức Quốc Xã chứ không phải do mật vụ Sô Viết hành
hình. Không chỉ sử Nga mà cả lịch sử thế giới, sự sụp đổ của đế quốc La Mã, các
hình thái kinh tế cũng được giải thích theo quan điểm CS.
Các nhà sử học Việt Nam trong
tương lai cũng sẽ nhức đầu như thế. Lịch sử không có một dòng chảy chính thống
và trong suốt qua các thời kỳ đất nước. Lịch sử Việt Nam từ năm 1954 ở miền Bắc
và từ năm 1975 trên phạm vi cả nước là lịch sử của kẻ thắng trận, được giải
thích theo quan điểm của kẻ thắng trận và để phục vụ cho mục đích của kẻ thắng
trận. Lịch sử Việt Nam mà sinh viên học sinh đang học là lịch sử được phát ra từ
cái loa, biểu tượng cho bộ máy tuyên truyền của chế độ, giống như cái loa mà
Huy Đức có thể đã ám chỉ trong bìa sách Bên Thắng Cuộc.
Rất nhiều tranh luận về lý do tồn
tại của chế độ CS tại Việt Nam. Trong cái nhìn của riêng tôi, chế độ CS tại Việt
Nam chưa sụp đổ, không phải nhờ đổi mới kinh tế, ổn định xã hội nhưng chính là
nhờ tác dụng của cái “loa lịch sử” đó. Đảng CS ít nhiều đã thành công trong việc
che giấu được tội ác và khoác cho mình chiếc áo chính danh, chính nghĩa, hay ít
nhất không một thành phần dân tộc nào chính danh, chính nghĩa hơn đảng CS.
Đảng Cộng sản tại năm quốc gia sót
lại từ phong trào CS quốc tế, đặc biệt Trung Quốc và Việt Nam đã pha chế chủ
nghĩa Dân tộc vào chủ nghĩa Cộng sản thành một loại hợp chất gây mê man nhãn hiệu
Dân tộc Xã hội chủ nghĩa. Đảng CS lý luận rằng họ ra đời để đáp ứng một nhu cầu
lịch sử và, như một tác giả viết trong báo Pháp Luật, “những người cộng sản chỉ
nối tiếp sứ mệnh mà lịch sử giao phó”. Lịch sử nào giao phó?
Chủ trương nhuộm đỏ Việt Nam của
đảng CS rõ như ban ngày khi đẩy hàng triệu thanh niên miền Bắc mang súng đạn của
Nga, Tàu vào cưỡng chiếm miền Nam. Pháp rút sớm hay rút muộn, Mỹ đến hay không
đến cũng chẳng ảnh hưởng gì đến mục tiêu thiết lập một nhà nước CS trên toàn
lãnh thổ Việt Nam nhất quán từ ngày thành lập đảng CS vào năm 1930. “Độc lập
dân tộc”, “Thống nhất đất nước” chỉ là những chiêu bài. Nếu không dùng khẩu hiệu
“Chống Mỹ cứu nước” bộ máy tuyên truyền tinh vi của đảng cũng thừa khả năng để
nặn ra hàng trăm chiêu bài, khẩu hiệu hấp dẫn khác để kích thích và lợi dụng
lòng yêu nước. Bộ máy tuyên truyền của đảng nhồi nhét vào nhận thức của các thế
hệ Việt Nam, nhất là thế hệ sinh ra và lớn lên sau cuộc chiến, rằng cuộc chiến
tranh gọi là “Chống Mỹ cứu nước” trước 1975 là cuộc chiến chính nghĩa, “đánh Mỹ”
là bước kế tục của chiến tranh chống Thực Dân Pháp. Đó là lý luận của kẻ cướp.
Đảng CS không chỉ cướp đất nước mà cướp cả niềm tin và khát vọng của những người
đã chết.
Như tôi đã viết trước đây, miền
Nam có đàn áp chính trị nhưng cũng có đấu tranh chính trị, có ông quan tham
nhũng nhưng cũng có nhiều phong trào chống tham nhũng hoạt động công khai, có
ông tướng lạm quyền nhưng cũng có ông tướng trong sạch, có nghị gà nghị gật
nhưng cũng có những chính khách, dân biểu, nghị sĩ đối lập chân chính. Xây dựng
một xã hội dân chủ vừa bước ra khỏi phong kiến và thực dân là một tiến trình
vinh quang nhưng cũng đầy trắc trở. Dân chủ ở miền Nam như một chiếc cây non lớn
lên trong mưa chiều nắng sớm. Nhưng dù có khó khăn, tham nhũng thối nát bao
nhiêu đi nữa, đó cũng là vấn đề riêng của Việt Nam Cộng Hòa không dính dáng gì
đến đảng CS ở miền Bắc. Những ông như Trịnh Đình Thảo, Lâm Văn Tết có đủ không
gian và phương tiện để đấu tranh một cách hợp pháp tại miền Nam cho một xã hội
tốt đẹp hơn như hàng trăm chính khách quốc gia khác. Dĩ nhiên, họ có thể thất bại,
bị tù đày và ngay cả bị giết nhưng vẫn là những người quốc gia chân chính. Tuy
nhiên, khi tham gia Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam, chấp nhận
làm công cụ cho đảng CS, họ đã tự chắt chiếc cầu biên giới giữa họ và nhân dân
miền Nam.
Tác giả viết trong Sài Gòn Giải Phóng nhắc
đến "10 cô gái Đồng Lộc” mà không biết rằng nếu có thể hiện hồn về, công
việc đầu tiên của các cô chết trong hố bom Đồng Lộc là đi tìm lãnh đạo đảng CS
để thanh toán cả vốn lẫn lời vì cái chết oan uổng của các cô chỉ để đổi lấy một
đất nước nghèo nạn, lạc hậu, một chế độ độc tài, tham nhũng, phản văn minh tiến
bộ như ngày nay.
Tác giả trên báo Sài Gòn Giải
Phóng cũng nhắc đến đến “nhà tù Côn Đảo”, “nghĩa trang Hàng Dương” làm tôi nhớ
đến nơi này. Tôi cũng đã từng đến đó, không phải vì phải ở tù mà chỉ vì muốn biết
một di tích lịch sử của dân tộc. Đảng xem nhà tù Côn Đảo như một “trường đại học
CS”, tài sản riêng của đảng CS nhưng đừng quên nhà tù Côn Đảo do thực dân Pháp
lập ra năm 1862 tức 68 năm trước khi đảng CS ra đời. Năm 1945, đảng CS ước lượng
có khoảng 5 ngàn đảng viên. Cho dù thực dân Pháp bắt và đày nguyên cả đảng ra
Côn Đảo cũng không thể so với số tù nhân thuộc các phong trào yêu nước khác. Với
tôi, cuộc chiến chống thực dân Pháp là cuộc chiến chính nghĩa. Trong suốt gần một
thế kỷ trong bóng tối thực dân, hàng vạn đồng bào thuộc nhiều thế hệ Việt Nam
đã bị bắt, tra tấn và đã hy sinh trên Côn Đảo. Những đồng bào đã hy sinh trong
cuộc chiến chống Thực Dân và bỏ xác trên đảo đều xứng đáng được tôn vinh.
Nếu họ đã từng là đảng viên Cộng
sản thì sao? Không sao cả. Như tôi đã có dịp viết trong tiểu luận "Từ buổi chiều trên nghĩa địa Hàng Dương",
việc tham gia vào đảng Cộng sản của một số người Việt Nam, chủ yếu là để được tổ
chức hóa nhằm mục đích hợp đồng chiến đấu, đạt đến chiến thắng dễ dàng hơn chứ
không phải vì tin vào chủ nghĩa Cộng Sản. Ngày đó, vì điều kiện giao thông khó
khăn, núi non cách trở, sự phát triển của các đảng phái chống thực dân ít nhiều
bị giới hạn bởi các đặc tính địa phương, bà con giòng họ, hoàn cảnh trưởng
thành. Nếu họ sinh ra ở Quảng Nam họ sẽ gia nhập Việt Nam Quốc dân Đảng, sinh
ra ở Quảng Trị họ sẽ gia nhập Đại Việt, sinh ra ở Cần Thơ, Vĩnh Long, An Giang
họ sẽ gia nhập Dân xã Đảng. Đó là trọng điểm của các đảng phái chống Pháp trong
những thập niên đầu của thế kỷ 20. Những người Việt yêu nước thời đó chọn lựa đảng
phái như chọn một chiếc phao để đưa dân tộc sang bờ độc lập. Những nông dân hiền
hòa chất phác, những công nhân đầu tắt mặt tối làm sao biết được con đường họ đi
không dẫn đến độc lập, tự do, hạnh phúc mà dẫn đến nghèo nàn, lạc hậu, độc tài
và làm sao biết được chiếc phao họ bám cũng là chiếc bẫy buộc chặt chẳng những
cuộc đời họ mà còn gây hệ lụy cho cả dân tộc đến ngày nay. Đảng Cộng sản như một
tổ chức thì khác. Mục đích của đảng CS không chỉ nhuộm đỏ miền Nam, nhuộm đỏ Việt
Nam mà còn nhuộm đỏ cả dòng lịch sử.
Tác giả viết trên báo Pháp
Luật so sánh việc chính quyền miền Nam tra tấn các đảng viên CS và tù
“cải tạo” sau 1975 khi kết án tác giả Bên Thắng Cuộc đã “Nhấn mạnh “chế độ hà
khắc” của các trại cải tạo nhưng cuốn sách lại không nhắc đến những trại tù và
cách ứng xử của chế độ Sài Gòn cũ đối với những người yêu nước.” Những kẻ ném lựu
đạn vào nhà hàng, ám sát, đặt mìn trên quốc lộ 1, quốc lộ 4, đặt bom trong sân
vận động, đốt chợ, đốt làng, giết người vô tội không phải tù chính trị hay tù
binh chiến tranh mà chỉ là những tên khủng bố. Chúng là những kẻ yêu đảng chứ
không phải là “những người yêu nước”. Bấm vào đây --> "Terrorist
Attacks in Saigon 1960s-70s" để xem các “chiến công hiển hách” của Biệt
động thành Sài Gòn Gia Định khi ám sát hàng loạt “Mỹ ngụy” còn mặc tã ở nhà
hàng Mỹ Cảnh. Tội ác giết phụ nữ trẻ em của chúng phải được xét xử theo đúng luật
pháp. Điều đó đã và đang được áp dụng tại mọi quốc gia trên thế giới không
riêng gì Việt Nam Cộng Hòa.
So sánh tù CS ở Côn Đảo và tù “cải
tạo” là một cách so sánh vụng về và không cân xứng. Tổng số tù tại
Côn Đảo khác nhau tùy theo bên nào tống kết, 5 ngàn theo con số của
VNCH công bố và 17 ngàn theo con số của Hà Nội. Dù chọn con số 17 ngàn của đảng
thổi phồng vẫn không thể so với hơn 200 ngàn công nhân viên chức và sĩ quan
quân đội VNCH bị giam giữ trong 150 trại tù, đa số tận rừng sâu nước độc kéo
dài từ 1975 đến 1992 mà chính Thủ
tướng CS Phạm Văn Đồng thừa nhận. Các tổ chức quốc tế ước lượng cho đến
1982 số viên chức và sĩ quan VNCH bị giam giữ vẫn còn lên đến 300 ngàn người.
Theo tổng kết của báo chí Mỹ, khoảng
165 ngàn người đã chết trong các trại tù CS. Ngoài ra, hàng triệu thân
nhân, gia đình, con cái họ bị đày ra các vùng kinh tế mới, bị bạc đãi như nô lệ
thời CS chỉ vì lý lịch VNCH.
Một điều quan trọng mà người dân
miền Nam sẽ không bao giờ quên, không giống tù Côn Đảo xảy ra trong thời chiến,
tội ác “tù cải tạo” vô cùng phi nhân đã được đảng thực thi sau khi đất nước đã
hòa bình, sau khi Lê Duẩn ngọt ngào tuyên bố “chiến thắng này thuộc về nhân dân
Việt Nam” và sau khi Trần Văn Trà, Chủ tịch Ủy ban Quân quản Sài Gòn Gia Định
vuốt ve các viên chức VNCH còn trong Dinh Độc Lập “Nhân dân Việt Nam chính là
người chiến thắng và chỉ đế quốc Mỹ mới thật sự là kẻ bại trận mà thôi”.
Phân tích như vậy để thấy lý luận
trong bài viết trên báo Pháp Luật cho rằng cuộc chiến chấm dứt sáng 30-4-1975
“không phải là chiến thắng của một “bên thắng cuộc” hạn hẹp mà là chiến thắng của
mọi người Việt Nam, trong đó cả những người từng ở phía bên kia” đúng là sản phẩm
của chính sách tẩy não. Miền Nam sau 30-4-1975 là một nhà tù và nhân dân miền
Nam là tù nhân dưới nhiều hình thức khác nhau.
Từ 1983, để tồn tại, đảng
CS phải tự diễn biến hòa bình bằng cách mở thêm một vài ô cửa sổ cho
gió vào nhưng thực chất đất nước vẫn còn bị bao bọc bằng bức tường dày bưng bít
thông tin và một chế độ trấn áp không thua tiêu chuẩn một nhà tù khắt khe quốc
tế nào. Lý thuyết Mác Lê có thể chỉ còn trong đầu môi chót lưỡi, trong các diễn
văn, trong các bài ai điếu của các lãnh đạo đảng nhưng các phương tiện chuyên
chính, toàn trị CS vẫn không khác gì nhiều so với thời triệt để cách mạng trước
đây. Một nhạc sĩ trẻ Việt Khang chỉ viết hai bài hát chống Tàu bị kết án bốn
năm tù. Một cô gái Đỗ Thị Minh Hạnh mới ngoài hai mươi tuổi, đấu tranh cho quyền
lợi công nhân phù hợp với luật pháp của đảng CS quy định bị kết án bảy năm tù,
một thanh niên trẻ Lê Sơn chỉ đưa tin tức các cuộc biểu tình chống Trung Quốc
và chống khai thác Bauxite tại Tây Nguyên bị kết mười ba năm tù. Và hàng trăm,
hàng ngàn người khác đã sống và đã chết, nhiều trường hợp rất âm thầm, trong
nhà tù CS chỉ vì dám nói lên khát vọng dân chủ tự do.
Tác giả trên báo Sài Gòn Giải
Phóng viết “Có thể lúc này lúc khác, Đảng có sai lầm. Cuộc sống khó khăn, đôi
khi tôi cũng mất lòng tin vào đường lối của Nhà nước.” Hãy chỉ dùm tôi, không
phải một năm, một tháng mà chỉ một ngày thôi đảng CS đã “lúc này lúc khác”. Bản
chất của chế độ chưa hề thay đổi dù chỉ một giờ.
Lãnh đạo đảng có 38 năm để chọn một
hướng đi phù hợp với trào lưu tiến hóa của nhân loại, có hàng trăm cơ hội để sửa
sai nhưng họ không làm. Tất cả chính sách của đảng chỉ nhằm một mục đích duy nhất
là củng cố quyền cai trị mặc cho dân tộc bị bỏ lại phía sau một đoạn đường quá
xa so với đà tiến của nhân loại sau cách mạng tin học và toàn cầu hóa kinh tế
cuối thập niên 1980. Tội ác của đảng với “tù cải tạo”, “kinh tế mới”, “đổi tiền”,
“đánh tư sản”, có viết hàng tủ sách cũng không hết. Nỗi đau và sự chịu đựng vô
bờ bến của nhân dân miền Nam nói riêng và cả nước nói chung, không thể nào diễn
tả cạn dòng. Hàng ngàn câu chuyện thật đau lòng đã xảy ra trên con đường máu
nhuộm Việt Nam sau 1975 và chỉ được phơi bày khi bức tường chuyên chính CS bị đạp
đổ.
Có hai cách để đạp đổ bức tường
chuyên chính. Thứ nhất, đi mượn một cái búa lớn của các cường quốc đem về đập
phá bức tường và thứ hai xói mòn bằng những bàn tay nhỏ Việt Nam kiên nhẫn. Sau
38 năm, những người đi tìm búa hoặc chết trên đường, hoặc trở về không. Còn lại
hôm nay là những bàn tay Việt Nam nhỏ nhoi. Bàn tay Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn
Hoàng Quốc Hùng, Đoàn Huy Chương, Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Trần Huỳnh Duy
Thức, Lê Công Định, Lê Quốc Quân, Đặng Xuân Diệu, Hồ Đức Hòa, Lê Văn Sơn và
hàng ngàn người Việt Nam yêu nước khác. Dù đang ngồi trong bốn bức tường đen, họ
mới chính là những người đang viết sử và thấy đâu là sự thật.
---------------------------------------------------
* Bài nhận được trực tiếp từ
tác giả Trần Trung Đạo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét