22-9-2012
Vậy ông Nguyễn Tấn Dũng sẽ là Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống, Gia Long hay Hoàng Văn Hoan ? Kết cục như thế nào chắc chúng ta còn phải chờ xem?
TNM: Hành động đàn áp cướp đất của dân, cầm tù sát hại người yêu nước, vơ vét tài nguyên đất nước đủ để kết tội phản quốc, đâu cần phải đợi đến kết cục để biết Thủ tướng sẽ là Ích Tắc hay Chiêu Thống ...
Lịch sử tranh bá đồ vương ở xứ ta đã không hiếm phen đẩy xô đây các đẫu lĩnh
vào cái tình thế " được làm vua, thua làm giặc "; để tranh đoạt tham
vọng quyền lực đã tìm cách cầu cứu, liên kết với ngoại bang trong đó có cả việc
xin viện binh, quân đội nước ngoài như các trường hợp: Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống;
Gia Long, Hoàng Văn Hoan...Vì sao lại dẫn tới nông nổi này, chúng ta hãy cùng lược
sử lại hoàn cảnh, bối cảnh ra đời những đầu lĩnh này ?
1/ Trần Íc Tắc
Đại Việt Sử ký Toàn thư (ĐVSKTT) có viết Ích
Tắc là con thứ của Thượng hoàng [Trần Thái Tông], thông minh hiếu học, thông hiểu
lịch sử, lục nghệ, văn chương nhất đời. Dù nghề vặt như đá cầu, đánh cờ, không
nghề gì không thông thạo; từng mở học đường ở bên hữu phủ đệ, tập hợp văn sĩ bốn
phương cho học tập, cấp cho ăn mặc, đào tạo thành tài như bọn Mạc Đĩnh Chi ở Bàng Hà, Bùi Phóng ở Hồng Châu v.v
. . . gồm 20 người, đều được dùng cho đời...Đến 15 tuổi, thông minh hơn người,
làu thông kinh sử và các thuật, vẫn còn có ý tranh đoạt ngôi trưởng đích. Ích Tắc
đã từng gửi thư riêng cho khách buôn ở Vân Đồn xin quân Nguyên xuống nam. Đến
nay [1285], người Nguyên vào cướp, Ích Tắc xin hàng để mong được làm vua.
Khi quân Nguyên Mông sang xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1285), ngày 15 tháng
3, Ích Tắc đem cả gia đình đi hàng giặc, được đưa về Trung Quốc và được Hốt Tất Liệt, vua nhà Nguyên, phong làm An Nam Quốc
vương và chờ ngày đưa trở về nước. Sau khi quân Nguyên Mông đại bại, Trần
Ích Tắc ở lại Ngạc Châu (nay thuộc tỉnh Hồ Bắc),
giữ chức quan Hồ Quảng bình chương chính sự, gia phong tới Ngân Thanh vinh lộc
đại phu rồi Kim tử quang lộc đại phu, nghi đồng tam tư và chết ở Trung Quốc mùa
hè năm Thiên Lịch thứ 2 (1329) đời Nguyên Văn Tông, thọ 76 tuổi. Năm Chí Thuận thứ nhất
(1330) được nhà Nguyên truy tặng tước Trung Ý vương.
Vì sự phản bội này mà sau này nhà Trần đã loại Ích Tắc ra khỏi tông thất, cho đổi
tên thành Ả Trần (妸陳). Việc này cũng được ghi lại trong ĐVSKTT: [1289],
tháng 5, sau khi đánh thắng quân Nguyên lần thứ ba, bắt được cả một hòm biểu
xin hàng. Thượng hoàng [Trần Thánh Tông] sai đốt hết đi để yên lòng những kẻ phản
trắc. Chỉ có kẻ nào đầu hàng trước đây, thì dẫu bản thân ở triều đình giặc,
cũng kết án vắng mặt, xử tội đi đày hoặc tử hình, tịch thu điền sản, sung công,
tước bỏ quốc tính. Ích Tắc là chỗ tình thân cốt nhục, tuy trị tội cũng thế,
nhưng không nỡ đổi họ xóa tên, chỉ gọi là Ả Trần, có ý chê hắn hèn nhát như đàn
bà vậy. Vì thế, những ghi chép đương thời đều gọi là Ả Trần....
( WikiPedia )
2. Lê Chiêu Thống
Lê Mẫn Đế (chữ Hán: 黎昭統, 1765 – 1793), tên thật là Lê Duy Khiêm (黎維),
khi lên ngôi lại đổi tên là Lê Duy Kỳ (黎維祁),
là vị vua thứ 16 và là cuối cùng của nhà Lê trung hưng, thực ở ngôi từ cuối tháng 7 âm
lịch năm
1786 tới đầu tháng giêng năm 1789. Chiêu Thống đã sang cầu viện nhà Thanh đem
quân sang đánh Quang Trung với hy vọng trở lại ngai vàng. Việc
làm đó của ông bị một số nhà sử học trong nước sau này chỉ trích dữ dội, coi đó
là hành vi "bán nước", "cõng rắn cắn gà nhà".
( WikiPedia )
3. Vua Gia Long
Vua Gia Long (chữ Hán: 嘉隆; 8 tháng 2 năm 1762 – 3 tháng 2 năm 1820) là vị Hoàng
đế đã thành lập nhà
Nguyễn, vương triều phong
kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Ông tên thật là Nguyễn Phúc
Ánh (阮福暎
hoặc 阮福映;
thường được gọi tắt là Nguyễn Ánh), trị vì từ năm 1802 đến khi qua đời
năm 1820.
Là cháu của vị chúa
Nguyễn cuối cùng ở Đàng
Trong, sau khi gần như toàn bộ gia tộc bị quân Tây Sơn bắt giết năm 1777, Nguyễn Ánh phải
trốn chạy và bắt đầu cuộc chiến 25 năm với Tây Sơn để khôi phục lại cơ nghiệp của
dòng tộc. Sau nhiều thất bại lớn và phải cầu viện sự giúp đỡ của Xiêm La và Pháp, ông giữ vững
được Nam Hà và đến năm 1802 thì đánh bại
quân Tây Sơn, lên ngôi hoàng đế, thống nhất Việt Nam sau
nhiều thế kỷ nội chiến.
Triều đại của ông được đánh dấu bằng việc chính thức
sử dụng quốc hiệu Việt Nam với cương thổ rộng lớn nhất cho đến thời đó, kéo dài
từ biên giới với Trung Quốc tới vịnh Thái Lan; thay thế các cải cách có xu hướng tự
do của triều Tây Sơn bằng nền giáo dục và điều hành xã hội theo Nho giáo khắc
nghiệt hơn; định đô tại Phú Xuân. Ngoài ra, ông còn là người mở đường cho các ảnh
hưởng của người Pháp ở Việt Nam qua việc mời họ giúp xây dựng các thành trì lớn,
huấn luyện quân đội và khoan thứ cho việc truyền đạo Cơ đốc.
Dưới triều đại của ông, Việt Nam trở thành một thế lực quân sự hùng mạnh ở Đông Dương, cùng Xiêm La phân chia ảnh hưởng đối với Chân
Lạp.
( WikiPedia )
4. Hoàng Văn Hoan
Hoàng Văn Hoan sinh trong một gia đình nhà nho nghèo ở
làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh
Lưu, tỉnh Nghệ An.
Ông học tiểu học tại quê nhà, sau đó tham gia hoạt động cách mạng lúc 19 tuổi. Năm 1926, ông dự
lớp huấn luyện chính trị do Hồ
Chí Minh chủ trì tại Quảng
Châu. Năm 1928, ông
hoạt động cách mạng ở Thái Lan,
gia nhập Đảng Cộng sản Xiêm (1930) và năm 1934 được cử làm Ủy viên
Trung ương lâm thời của Đảng Cộng sản Xiêm (gọi tắt
là Xiêm ủy).
Năm 1936, tham
gia lập Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội (bấy
giờ gọi tắt là Đồng Minh Hội) ở Nam Kinh. Năm 1941, ông
được phái đi Long Châu lập Biện sự xứ của Đồng Minh Hội ở Long Châu, rồi lại về
Tịnh Tây, cùng Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Lê Thiết Hùng, Cao Hồng Lĩnh và một số người trong nước
ra công khai hoạt động với danh nghĩa Việt Minh, mới được thành lập trong nước.
Tháng 5 năm 1941 về Pác Bó tham gia Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ tám
và được chỉ định làm Ủy viên Tổng bộ Việt Minh.
Đầu năm 1945, tại
hội nghị toàn quốc của Đảng ở Tân
Trào (Tuyên Quang), ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung
ương Đảng và Bí thư Khu giải phóng Việt Bắc.
Sau Cách mạng Tháng Tám, ông làm thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Chính trị viên Vệ quốc
quân toàn quốc.
Năm 1946, được
cử làm Bí thư Khu ủy, Đại biểu Chính phủ Trung ương và Chủ nhiệm Việt
Minh tại Liên khu 4. Theo Sắc lệnh SL53
ngày 24 tháng 4 năm 1946, ông thay Hoàng Đạo Thúy làm Cục trưởng Cục Chính trị cho
tới cuối năm đó.
Từ năm 1950 đến
năm 1957 làm Đại
sứ đầu tiên của Việt Nam tại Trung
Quốc kiêm Đại sứ tại Triều
Tiên và Mông Cổ.
Năm 1951 ông
được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và từ năm 1956 đến năm 1976 là Ủy viên Bộ chính
trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tại kỳ họp thứ tám Quốc hội khóa I (1958) được bầu làm Phó chủ tịch kiêm Tổng
thư ký Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đồng thời làm Chủ nhiệm Ủy ban dự thảo
Pháp luật Quốc hội. Ông làm Phó Chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội cho đến năm
1979.
Năm 1961, ông
làm Bí thư Thành ủy Hà Nội một
thời gian ngắn, rồi giữ chức Trưởng Ban liên lạc đối ngoại Trung ương Đảng, Trưởng
Ban pháp chế Trung ương Đảng, đồng thời phụ trách chỉ đạo Ban CP 38 về công tác Lào, Miên...
Năm 1979, trong
một chuyến đi sang Đông Đức chữa bệnh, ông đã bỏ trốn tại sân bay Karachi (Pakistan) ngày 11 tháng
6 năm 1979 rồi
sang Trung Quốc. Tại Bắc Kinh, ông tố cáo chính quyền Việt
Nam đã đối xử với người Việt gốc Hoa còn "tệ hơn cả cách Hitler đối xử
với người Do Thái" .
Sau sự kiện bỏ trốn, ông bị Việt Nam kết án tử
hình vắng mặt và trở thành biểu tượng của sự phản bội, đài báo Việt
Nam so sánh ông với Lê Chiêu Thống. Đó
là thời điểm quan hệ Việt Nam - Trung Quốc căng thẳng và chiến tranh biên giới Việt-Trung vừa
xảy ra hồi đầu năm.
Năm 1988, ông
xuất bản hồi ký Giọt nước giữa biển cả
Hoàng Văn Hoan mất tại Bắc Kinh năm 1991, Trung Quốc tổ chức
lễ tang cấp nhà nước dành cho ông, thi hài được chôn tại nghĩa trang Bát Bảo
Sơn, nơi chôn cất của các quan chức cao cấp củaTrung Quốc. ( WikiPedia
)
Gần đây một phần hài cốt của ông đã được chuyển về quê hương tại Việt Nam.
Trong 5 trường hợp bị đẩy vào tình thế " được làm vua,thua làm giặc"
trên thì chỉ có một vị thành công,trở thành vua đó là Gia Long, còn 3 trường hợp
khác đều đã an phận giặc...Đây là một đề tài lớn Tiên Sinh tôi xin nhường lời
cho các sử gia phân tích xem ai có khả năng và trong hoàn cảnh nào có thể thành
vua và ai rồi giặc vẫn sẽ lòi mặt giặc...
Triều Nguyễn do Gia Long sáng lập là một triều đại công cũng lắm mà tội cũng
không nhỏ: để đất nước bị rơi vào ách đô hộ của thức dân Pháp hơn 80 năm; Vậy
thì đây là tội hay công ? Quả thực để phân định không dễ: Bị thực dân Pháp đô hộ
Việt Nam được gì mất gì, cái nào lớn hơn cái nào ?
Một đặc điểm trong lịch sử nước nhà tất cả những ai tìm cách liên kết, liên minh
với Trung Hoa sớm muộn đều đã thất bại; Gia Long sở dĩ thành công một mặt do bởi
Triều Tây Sơn đã nhanh chóng suy vong sau cái chết đột tử của Quang Trung do bị
Càn Long đầu độc như một vài ý kiến đã nêu, nhưng cái thành công chủ yếu của
Gia Long là do biết dựa vào một thế lực ngoại bang đang hãnh tiến ( đế quốc
Pháp), đang lên, thế lực thực dân;và triều đại này cũng đã bị nhấn chìm sau đó
bởi làn sóng thực dân này...
Cuộc đi thăm chớp nhoáng Trung Quốc của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng với cái bắt
tay đầy hãnh diện với một người đang hãnh tiến Trung Hoa Tập Cận Bình trong
tình huống nước sôi lửa bỏng trong cuộc đấu nội bộ cung đình nước Việt thời hiện
đại do sự phát động cuộc chỉnh Đảng do TBT Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch nước
Trương Tấn Sang khởi xướng; Liệu đây có là dấu hiệu về một tình huống lịch sử mới
như các trường hợp " được làm vua, thua làm giặc " như đã diễn ra
trong lịch sử hay là dấu hiệu của sự hòa hoãn, sự thỏa hiệp, buộc phải chùng tay
do bởi sự nhúng tay quá sâu vào chính trường nước Việt của Trung Quốc ?
Vậy ông Nguyễn Tấn Dũng sẽ là Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống, Gia Long hay
Hoàng Văn Hoan ? Kết cục như thế nào chắc chúng ta còn phải chờ xem?
Hay chuyến thăm Trung Quốc của ông Nguyễn Tấn Dũng cho thấy: giới chóp bu Hà Nội
vẫn tìm cách hòa hoãn với Trung Quốc, chuyến đi này là tín hiệu cho thấy ông
Nguyễn Tấn Dũng chưa "bị thịt" trong kỳ chỉnh đốn Đảng kỳ này do bàn
tay can thiệp của Trung Quốc; vuốt mặt phải nể mũi ???
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét