1-12-2012
Sau đề nghị của tôi về xưng hô, nhiều
độc giả lưu ý rằng cha đẻ của cách xưng hô gia đình hóa trong xã hội Việt Nam
thời đại xã hội chủ nghĩa là vị “cha già dân tộc”, người tự xưng là “Bác Hồ”.
Theo tôi trường hợp “Bác Hồ” không hẳn như vậy.
Khác với những nhà lãnh đạo từ Lê Duẩn trở đi sau này, Hồ
Chí Minh thuộc thế hệ các nhà cách mạng xuất thân kẻ sĩ – trí thức trong giai
đoạn chuyển tiếp từ Nhohọc sang Tây học. Xung quanh ông là những người mà tố chất
kẻ sĩ – trí thức ấy không chỉ biểu lộ qua sáng tác văn chương, từ Trường Chinh,
Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Hoan… đến Xuân Thủy, Cù Huy Cận, Tố Hữu,
Đặng Thai Mai…
Cho đến nay tôi chưa thấy một văn bản chính trị viết bằng tiếng Việt
nào vượt qua bản Tuyên
ngôn Độc lập do Hồ Chí Minh soạn thảo năm 1945 về hình thức biểu đạt
và chất lượng ngôn ngữ: hàm súc, khúc chiết, sắc bén, chính xác, sáng rõ và giản
dị.
Ngay cả câu mở đầu lấy từ Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ cũng là một mẫu mực
về dịch thuật. Hoặc ngòi bút chính trị của Hồ Chí Minh ở thời điểm ấy đạt đến độ
chín thích hợp nhất, hoặc giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân
Pháp là chủ đề tâm huyết nhất của cuộc đời ông, nên những áng văn sau này của Hồ
Chí Minh cũng không vượt qua được Tuyên ngôn Độc lập. Song ngôn ngữ trong hai Lời
kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cũng như trong Di chúc vẫn
cho thấy một khả năng diễn đạt xuất sắc. Một người làm việc với ngôn ngữ như thế
không thể không có ý thức sâu sắc về cách xưng hô trong tiếng Việt.
Tôi không ngại nói quá khi khẳng định rằng trước và sau Hồ
Chí Minh, khó tìm thấy một người Việt Nam nào trải qua nhiều tình huống xưng hô
một cách tự nhiên và lịch lãm như ông. Trong toàn bộ lịch sử Việt Nam, chắc chắn
ông là người đứng đầu nhà nước giữ kỉ lục về tiếp xúc với các tầng lớp và thành
phần đủ mọi lứa tuổi trong xã hội. Chúng ta hãy điểm một số cách xưng hô của Hồ
Chí Minh trong giao tiếp, trước khi “Bác Hồ” trở thành quy phạm xưng hô của người
Việt[1].
Xưng hô chính thức và đầu tiên của Hồ Chí Minh trước công luận
là trong câu hỏi nổi tiếng, khi ông đọc Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945: “Đồng
bào nghe tôi nói có rõ không?“. Đồng bào và tôi. Từ bao giờ cách
gọi đồng bào này biến mất? Có lẽ từ khi ông qua đời? Mỗi lần nói với
toàn thể hay một tập hợp người Việt ông đều dùng chữ đồng bào này. Ở
các lời tuyên bố, kêu gọi, thường là Hỡi đồng bào cả nước, Kính cáo đồng
bào. Ở các cuộc tiếp xúc, thường làThưa đồng bào hay Thưa đồng bào
yêu quý. Trong thư, thường rất cụ thể: Gửi đồng bào Công giáo, đồng bào
Mán, đồng bào nông gia, đồng bào hậu phương, đồng bào tản cư, đồng bào Nam bộ,
đồng bào văn hóa và trí thức, đồng bào điền chủ… Và xưng tôi hoặc chúng
tôi, khi ông thay mặt chính phủ phát biểu. Xưng hô cuối cùng của ông, trong Di
chúc, cũng giữ nguyên như vậy: đồng bào và tôi.
Từ vị trí xưng tôi hay chúng tôi, Hồ Chí Minh
uyển chuyển khi đứng trước những đối tượng khác nhau. Những người như Nguyễn Hải
Thần, Vũ Công Khanh được ông gọi là tiên sinh, tướng Trần Tu Hòa là Trần
tướng quân, giám mục Lê Hữu Từ là cụ, linh mục Lê Văn Yên làngài, các ông
Huỳnh Thúc Kháng, Bùi Bằng Đoàn, Nguyễn Văn Tố… đều là cụ, bác sĩ Vũ Đình
Tụng là ngài, đại diện các gia đình hảo tâm quyên góp cho chính phủ là các
bà và các ngài, hội hảo tâm là quý hội, một ông lang đạo ở Hòa
Bình là ông, Chủ tịch Quốc hội là cụ chủ tịch, một bộ trưởng là cụ
bộ trưởng, đại diện các ủy ban nhân dân là các bạn… Ông thưa các cụ
và các chú, thưa các ngài trong giới công thương, thưa các vị linh mục, thưa các
vị kỳ lão và nhân dân, thưa anh chị em thanh niên Nam bộ, thưa toàn quốc đồng
bào và toàn thể đồng chí, thưa các bậc phụ huynh, thưa các hiền nhân chí sĩ,
thưa các bạn sĩ, nông, công, thương, binh, thưa các ông bộ trưởng, thưa các bạn
nhân viên chính phủ, thưa hai cụ già du kích, thưa anh em họa sĩ, thưa các vị
thân hào thân sĩ, thưa những người bạn Pháp ở Đông Dương, thưa ngài Thống chế
Stalin, thưa bà cụ, thưa lão du kích… Trong một bức thư gửi ngụy binh, ông gọi
họ là anh em. Gửi những người đi lính cho Pháp và bù nhìn, ông viết: tôi
thiết tha kêu gọi các người. Viết thư cho gia đình mình, ông đề: Gửi họ
Nguyễn Sinh và xưng tôi. Tất cả cho thấy một nghệ thuật xưng hô lão
luyện.
Vậy “Bác Hồ” từ đâu ra?
Ngay trong tháng 9-1945, Hồ Chí Minh xưng là Già Hồ gửi
thư đến các trẻ em yêu quý. Trong “Thư gửi thiếu nhi Việt Nam
đêm Trung thu đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” 1945, ông viết: “Các
em, đây là Hồ Chí Minh nói chuyện với các em… Các em có hứa với tôi như thế
không?… Chào các em, Hồ Chí Minh“, một phong cách không giấu ảnh hưởng của ngôn
ngữ và văn hóa phương Tây. Trong thư gửi học sinh, ông cũng xưng là tôi, gọi
học sinh là các em. Nói chuyện với thanh niên, ông gọi họ là các anh
em, xưng là tôi. Trong một bài thơ tặng cháu Nông Thị Trưng, ông gọi cháu và
xưng ta.
Lần đầu tiên Hồ Chí Minh xưng bác và gọi cháu là
trong “Trả lời thư chúc mừng của Hội Nhi đồng Công giáo khu Thượng Mỹ, huyện
Phú Xuyên, Hà Đông” ngày 10-5-1947: “Bác cảm ơn các cháu. Bác khuyên các cháu:
Biết giữ kỉ luật, siêng học siêng làm, yêu Chúa yêu nước. Bác hôn các cháu.” Và
kí với Hồ Chí Minh, chứ không với Bác Hồ. Ba tháng sau, trong “Thư gửi
nhi đồng toàn quốc nhân kỉ niệm Cách mạng Tháng Tám” năm 1947, danh xưng Bác Hồ
xuất hiện và từ đó được sử dụng.
Song tôi phải nhấn mạnh: Hồ Chí Minh chỉ xưng bác trong
hai trường hợp quan hệ. Thứ nhất, trường hợp bác – cháu, với nhi đồng. Điều
này không có gì là chướng. Ở tuổi 55 khi lên làm Chủ tịch nước, đối với người
Việt thuở đó Hồ Chí Minh đã là một người già. Phóng viên báo chí thường gọi ông
là Cụ Chủ tịch, cũng như ông gọi những người trạc tuổi mình là cụ.
Trong bối cảnh ấy, xưng hô bác – cháu của Hồ Chí Minh với nhi đồng là
tự nhiên. Không một nhà lãnh đạo Việt Nam nào cho đến nay biết nói với trẻ em một
cách nghiêm túc và tôn trọng mà vẫn không kém thân thiết như “Bác Hồ”[2]. Cuối
thư gửi nhi đồng, Hồ Chí Minh thường hôn các cháu. Trong một bức thư, ông
còn hôn các cháu rõ kêu, một cử chỉ rất Tây được diễn đạt rất Việt.
Trường hợp xưng bác thứ hai của Hồ Chí Minh là
trong quan hệ với những người kém tuổi mình. Bác ở đây không phải là bác –
cháu, mà là bác – cô/chú
Chúng ta không lạ cách xưng tôi, gọi một người kém tuổi
là chú hay cô nói chung, một cách xưng hô khá trung lập,
không nhất thiết gây ấn tượng gia đình chủ nghĩa mà vẫn giữ được sự thân mật và
khoảng cách tuổi tác. Với những người cộng sự gần gũi như Vũ Đình Huỳnh, Cù Huy
Cận, Đặng Thai Mai, Nguyễn Khánh Toàn…, Hồ Chí Minh sử dụng cách xưng hô này.
Xưng tôi hoặc anh. Gọi chú. Trong phạm vi quan hệ hẹp, ít
khi trước công luận.
Ở Berlin, nơi có cộng đồng Nghệ An lớn nhất hải ngoại, tôi học
được rất nhiều từ Việt cổ và những thói quen ngôn ngữ khác xa tiếng Việt phổ
thông. Người xứ Nghệ có thể xưng tôi haytui, tau với cha mẹ. Cha
mẹ có khi gọi con cái, bất kể con trai hay con gái, là ông. Và họ dùng
tràn lan bác – chú, cứ nhiều tuổi hơn xưng bác, ít tuổi hơn xưng chú,
phơi phới giữa Berlin. Hồ Chí Minh, người xứ Nghệ nổi tiếng nhất, bôn ba qua
bao nhiêu xứ sở, ngôn ngữ và văn hóa, có lẽ vẫn giữ thói quen xưng hô ấy.
Ông khá thọ và mất ở tuổi 79. Người hơn tuổi ông thuở ấy
không nhiều. Nên với đại đa số thì ông hoặc là bác với các cháu nhi
đồng theo trường hợp thứ nhất, hoặc là bác với các cô, các chú theo
trường hợp thứ hai. Một lúc nào đó, ông đương nhiên trở thành và chỉ còn là
“Bác Hồ”.
Gần nửa thế kỉ sau khi qua đời, Hồ Chí Minh chưa thôi là điểm
cọ xát gay gắt cho dân tộc mà ông đã dẫn ra khỏi ách thực dân rồi dắt vào tròng
chuyên chế. Cả vị thánh lẫn kẻ tội đồ trong ông đều đã thuộc về lịch sử, đã hết
hạn sử dụng, song dân tộc bị chia rẽ sâu sắc này vẫn tiếp tục hoặc lấy ông làm
cẩm nang và lá chắn, hoặc dùng ông làm cái ổng nhổ để trút mọi oán hận. Ông là tấm gương khi người ta
không biết soi vào đâu nữa. Ông là nguyên ủy của mọi vấn nạn, kể cả vấn nạn
xưng hô, khi người ta không biết tìm đáp án từ đâu. Trong sự tuyệt vọng của
chúng ta, Hồ Chí Minh là chiếc bung xung lí tưởng.
Không phải vì công bằng mà tôi bênh vực cách xưng hô của Hồ
Chí Minh.
Một người đầy ý thức tự thêu dệt huyền thoại, một người không chùn
tay cho vay khống những khoản tín dụng lịch sử đáng ngờ như ông thì không chờ đợi
gì nhiều ở lẽ công bằng cho cá nhân mình. Điều tôi mong muốn đơn giản là: chúng
ta hãy thôi tự lố bịch, bằng cách chấm dứt cả những lời ca tụng nực cười lẫn những
lời kết án vô lối đối với Hồ Chí Minh. Trách nhiệm thật của ông ở những điểm hệ
trọng của lịch sử Việt Nam cận đại cần được phơi bày rốt ráo. Còn trong sự nghiệp
phá hoại văn hóa xưng hô của người Việt, vai trò thật của ông nhỏ hơn tai tiếng
rất nhiều.
_________________________
[1] Tất cả các trích dẫn trong bài rút từ Hồ Chí
Minh toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000.
[2] Để so sánh: năm ngoái một
nhà lãnh đạo ngành giao thông Việt Nam đã chân tình khuyên học sinh như
sau: “Nếu các cháu khi đi xe gắn máy không được cha mẹ đội mũ bảo hiểm thì kiên
quyết không đi, hoặc hãy khóc to để được cha mẹ cho đội mũ bảo hiểm khi tham
gia giao thông”.
pro&contra
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét