22-12-2012
Tình cờ hôm nay TNM khởi đăng bút ký lịch sử " Làm Thế Nào Để Giết Một Tổng Thống" của tác giả Cao Thế Dung & Lương Khải Minh thì trên báo Thanh Niên (lề Đảng) lại có bài ca ngợi "anh hùng tình báo" Phạm Ngọc Thảo qua tựa đề "Phạm Ngọc Thảo- Oanh liệt trong thầm lặng" của tác giả Hoàng Hải Vân.
Phạm Ngọc Thảo - một Đại Tá trong QLVNCH, là người liên quan đến cuộc đảo chánh TT Ngô đình Diệm năm 1963, được "đích thân Bí thư Xứ ủy Lê Duẩn chỉ định ở lại miền Nam với nhiệm vụ chiến lược là thâm nhập vào hàng ngũ cao cấp của chính quyền Sài Gòn để “phục vụ cho mục tiêu thống nhất đất nước”.
Cũng theo bài viết này : "Anh em họ Ngô rất cần có những trí thức từng tham gia chống Pháp ở bên cạnh mình và rất cần sự hậu thuẫn của những gia đình có truyền thống yêu nước như gia đình Phạm Ngọc Thảo để làm nền móng cho chế độ. Phạm Ngọc Thảo và cấp trên của ông không bao giờ đánh giá thấp anh em Ngô Đình Diệm, nếu đánh giá thấp đối phương thì không thể có được “ván bài lật ngửa” ngoạn mục như chúng ta đã biết."
Vì có những liên quan đến lịch sử cùng sự trùng hợp hi hữu này, TNM xin giới thiệu bài viết Phạm Ngọc Thảo- Oanh liệt trong thầm lặng" để bạn đọc có thêm tài liệu lịch sử.
PHẠM NGỌC THẢO - OANH LIỆT TRONG THẦM LẶNG
Hoàng Hải Vân
21/12/2012
Gia thế
Phạm Ngọc Thảo xuất thân từ một gia đình trí thức giàu có ở
Vĩnh Long, theo đạo Công giáo toàn tòng. Thân sinh của ông là cụ Adrian Phạm Ngọc
Thuần, một kỹ sư trắc địa và là một điền chủ giàu có nổi tiếng Nam bộ, mang quốc
tịch Pháp. Anh chị em ông cũng có quốc tịch Pháp nên sang Pháp du học, đều trở
thành bác sĩ, kỹ sư, luật sư.
Dù học ở Pháp, dù là “dân Tây”, dù có cuộc sống giàu sang
nhưng anh chị em Phạm Ngọc Thảo đều hướng về đất nước, đều khát khao giành độc
lập cho Tổ quốc. Anh ruột ông, luật sư Gaston Phạm Ngọc Thuần tham gia Thanh
Niên Tiền phong chống Pháp cùng bác sĩ Phạm Ngọc Thạch từ năm 1943, sau đó tham
gia khởi nghĩa giành chính quyền và làm đến chức Phó chủ tịch Ủy ban Hành chính
kháng chiến Nam bộ, sau năm 1954 tập kết ra Bắc, làm Đại sứ nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa tại CHDC Đức. Một người anh khác, ông Lucien Phạm Ngọc Hùng cũng từ
Pháp về nước tham gia kháng chiến, sau này là Ủy viên Hội đồng Chính phủ cách mạng
lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam…
Phạm Ngọc Thảo trên tạp chí Life |
Phạm Ngọc Thảo sinh ngày 14.2.1922, sau khi đỗ tú tài ở Sài
Gòn, do Đại chiến thế giới 2 nổ ra, ông không sang Pháp mà ra Hà Nội học,
tốt nghiệp bằng kỹ sư công chánh năm 1942 và về làm việc tại Sài Gòn từ năm
1943. Theo chân người anh, ông tham gia Cách mạng tháng Tám năm 1945 ngay từ những
ngày đầu và khi Pháp quay lại xâm chiếm Nam bộ, ông tuyên bố hủy bỏ quốc tịch
Pháp, lên đường cầm súng đi kháng chiến.
Vì sao con cái một gia đình “đại địa chủ” (theo nhiều tài liệu
thì gia đình Phạm Ngọc Thảo có tới hơn 4.000 mẫu đất và hàng ngàn bất động sản ở
Nam bộ), đồng thời là “dân Tây” và là Công giáo toàn tòng, lại “đồng loạt” tham
gia kháng chiến, không chỉ tham gia kháng chiến mà còn đem hết gia sản ra ủng hộ
kháng chiến?
Sự “đồng loạt” hiếm có đó là từ chính nghĩa của cách mạng,
là từ truyền thống yêu nước của gia đình, xuất phát từ người ông của Phạm Ngọc
Thảo. Ông nội của Phạm Ngọc Thảo là cụ Phạm Ngọc Lành (cụ Lành có thể có nhiều
tên khác), là một thương gia lớn ở Nam bộ thời Pháp thuộc. Sau này cho con cháu
gia nhập quốc tịch Pháp để “tự vệ”, song cụ Lành sinh thời không những không
dính dáng gì với người Pháp mà còn tích cực ủng hộ, hậu thuẫn cho các phong
trào yêu nước chống Pháp từ trước khi có cách mạng. Ngay cả phong trào Cần
Vương ở tận miền Trung cũng được cụ Lành gửi tiền của hậu thuẫn. Nhiều bậc tiền
bối của cách mạng ở Nam bộ đã dựa vào gia đình này để nhen nhóm phong trào và
khi cách mạng nổ ra, gia đình này đã nhẹ nhàng đem hết gia sản và con cái ra cống
hiến.
Thực ra, khi đất nước bị chia cắt thì một gia đình bị phân
hóa cũng là bình thường, mặt khác, sau này anh em ông Ngô Đình Diệm đã trọng dụng
Phạm Ngọc Thảo, không chỉ vì ông Thảo có tài năng, có tư cách. Ngô Đình Diệm,
Ngô Đình Nhu và Trần Kim Tuyến chắc chắn không “mù”, họ biết rất rõ những người
anh của Phạm Ngọc Thảo đang ở “phía bên kia”. Sau khi lên cầm quyền ở miền Nam,
Ngô Đình Diệm thực hiện khẩu hiệu “phản đế, bài phong” để xây dựng chế độ quốc
gia “cạnh tranh” với những người cộng sản, nhưng điều mỉa mai là hầu hết các tướng
lãnh, sĩ quan và quan chức cao cấp chính quyền của họ đều là sản phẩm do người
Pháp để lại. Anh em họ Ngô rất cần có những trí thức từng tham gia chống Pháp ở
bên cạnh mình và rất cần sự hậu thuẫn của những gia đình có truyền thống yêu nước
như gia đình Phạm Ngọc Thảo để làm nền móng cho chế độ. Phạm Ngọc Thảo và cấp
trên của ông không bao giờ đánh giá thấp anh em Ngô Đình Diệm, nếu đánh giá thấp
đối phương thì không thể có được “ván bài lật ngửa” ngoạn mục như chúng ta đã
biết. Nhưng đó là chuyện sau này.
Năm 1946, ông được cử đi học Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn ở
Sơn Tây. Sau khi tốt nghiệp khóa 1 trường này, ông lập tức trở về miền Nam chiến
đấu và đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng của kháng chiến: Tiểu đoàn trưởng,
Trung đoàn phó, Trưởng phòng Mật vụ Nam bộ (chức vụ tương đương Trung đoàn trưởng).
Năm 1949, Phạm Ngọc Thảo kết hôn với bà Phạm Thị Nhiệm, cũng là một trí thức
tham gia kháng chiến (bà Nhiệm là em gái Giáo sư Phạm Thiều lúc đó là Giám đốc
Nha Giáo dục phổ thông Nam bộ, sau khi tập kết ra Bắc làm Đại sứ Việt Nam dân
chủ cộng hòa tại một số nước Đông Âu).
Năm 1946 cũng là năm ông Lê Duẩn được Trung ương cử vào Nam
làm Bí thư Xứ ủy Nam bộ. Khi quân Pháp đổ bộ vào miền Nam, giữa sự vây ráp ráo
riết của địch, chính Phạm Ngọc Thảo là người trực tiếp hộ vệ đưa ông Lê Duẩn từ
Phú Yên, nơi đóng trụ sở Ủy ban Hành chính kháng chiến miền Nam Việt Nam về chiến
trường Nam bộ để lãnh đạo kháng chiến.
Bản lĩnh, tài năng, mưu trí và phẩm chất
của Phạm Ngọc Thảo trên chiến trường đã chinh phục niềm tin của vị Bí thư Xứ ủy.
Cuộc hạnh ngộ này ảnh hưởng quyết định đến sứ mệnh sau này của ông. Dùng một
trí thức con nhà Công giáo đại địa chủ làm tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng,
thậm chí làm tướng cũng không có vấn đề gì, nhưng làm Trưởng phòng Mật vụ của cả
Nam bộ kháng chiến thì, trừ ông Lê Duẩn, không ai dám và điều này thì quả thật,
ông Lê Duẩn có con mắt anh hùng đoán giữa trần ai. Trong những lúc nói chuyện với
chúng tôi, ông Võ Văn Kiệt trước sau đều khâm phục tầm nhìn chiến lược và sự
trông xa thấy rộng của ông Lê Duẩn và ông cũng nhớ lại: “Không ít anh em cũng
lo ngại về cách dùng người như vậy của anh Ba”.
Điều đáng chú ý là những nhân vật như Trần Văn Đôn, Nguyễn
Khánh, Lê Văn Kim… cũng có vào chiến khu tham gia kháng chiến trong thời gian đầu
và họ đều được Phạm Ngọc Thảo huấn luyện về chiến tranh du kích, nhưng họ đã
quay lưng theo Pháp và trở thành những tướng lãnh quân đội Sài Gòn. “Những người
quen cũ” đó sau này vừa nể phục Phạm Ngọc Thảo vừa coi ông là một đối thủ đáng
gờm.
Hiệp định Genève được ký kết, Phạm Ngọc Thảo được đích thân
Bí thư Xứ ủy Lê Duẩn chỉ định ở lại miền Nam với nhiệm vụ chiến lược là thâm nhập
vào hàng ngũ cao cấp của chính quyền Sài Gòn để “phục vụ cho mục tiêu thống nhất
đất nước”. Ông Lê Duẩn giới thiệu Phạm Ngọc Thảo với ông Mai Chí Thọ, lúc ấy là
người phụ trách Ban Đặc tình Xứ ủy (sau này là đại tướng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ).
Hai người khác trong Ban cùng có mặt là ông Mười Hương và ông Cao Đăng Chiếm
(sau này là thượng tướng, Thứ trưởng Bộ Nội vụ).
Tuy ở lại hoạt động ở miền Nam nhưng ông Mai Chí Thọ là người
lừng lẫy nên có quá nhiều người biết, ông Cao Đăng Chiếm cũng vậy, Đảng không
cho phép vào sống ở Sài Gòn, chỉ có ông Mười Hương là có thể vào Sài Gòn sống hợp
pháp vì ông là cán bộ từ ngoài Bắc vào, không ai biết. Do đó, ông Mười Hương đã
bàn bạc cụ thể với Phạm Ngọc Thảo về đường hướng, phương thức hoạt động và trực
tiếp liên lạc với Phạm Ngọc Thảo ngay tại Sài Gòn. Ông Mười Hương trở thành
“người chỉ huy” Phạm Ngọc Thảo trong thời kỳ đầu, tuy nhiên thời gian này rất
ngắn, vì sau đó ông Mười Hương bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt giam ở Huế.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét