Anh Gấu Phạm
10-12-2012
Mốc thời gian quan trọng: Sài Gòn 30 tháng 4 năm 1975
|
Vì điều đó nhân danh chỉ cá nhân tôi tôi muốn được xin lỗi.
*********
Nếu chúng ta không thể
Làm chiếc bút chì màu
Để vẽ nên hạnh phúc
Cho những người buồn đau.
Thì chí ít, hãy cố
Làm chiếc tẩy, hàng ngày
Giúp xóa sạch khỏi họ
Những nỗi buồn đau này.
(Thơ Thái Bá Tân)
(Tôi đã sửa lại bài viết cho đỡ luộm thuộm. Tại đêm qua phải
giặt tay hơi mệt.)
Ngày hôm qua tôi đã đọc xong bản điện tử của quyển một (Giải
Phóng) của bộ sách mới của anh Huy Đức với tựa đề Bên Thắng Cuộc gần như liên tục
trong vòng 9 tiếng. Chủ đề của cuốn sách, những vấn đề mà nó xem xét cũng là những
điều làm tôi suy nghĩ vương vấn trong đầu nhiều năm nay.
Là một nhà báo năng động và thành công ở Sài Gòn trong giai
đoạn Việt Nam đổi mới, anh Huy Đức có lợi thế gần như không ai có được ở khả
năng tiếp cận với các cá nhân đã từng hoặc vẫn đang là giới chức cao cấp hàng đầu
của CHXHCN Việt Nam và các nhân sỹ, trí thức và cựu quan chức của Việt Nam Cộng
Hòa. Khả năng ngoại ngữ và góc nhìn hướng ngoại của anh cũng giúp anh gặp gỡ với
các nhân vật Mỹ có liên quan tới giai đoạn lịch sử thời chiến tranh Việt Nam.
Nhờ những lợi thế này anh Huy Đức đã gom góp được một nguồn sử liệu khổng lồ từ
các trao đổi cá nhân thu thập từ chính nhân vật lịch sử. Các thông tin nguồn
chính này kết hợp với các nguồn tham khảo đồ sộ mà tác giả sử dụng tạo dựng cho
cuốn sách này vị thế của một tác phẩm kinh điển tức thì về lịch sử Việt Nam.
Tôi tin rằng hàng chục năm nữa người ta vẫn sẽ còn tiếp tục trích dẫn từ cuốn
sách này.
Anh Huy Đức không được đào tạo về những phương pháp hiện đại
nghiên cứu và tái dựng lịch sử. Anh cũng không được đào tạo bài bản và chuyên
nghiệp về báo chí mà đã tự học lên từ thực tế công việc. Biết vậy tôi càng cảm
phục hơn tinh thần và nỗ lực làm việc nghiêm túc mà tác giả đã đổ vào tác phẩm
đồ sộ này. Tôi dễ dàng cảm nhận thấy từ giọng văn bình thản, lối trình bày
thông tin, dữ liệu tương đối cân bằng; cách tác giả không sa đà vào phân tích;
cách đặt tên các tựa đề và đề mục là tác giả đã bỏ công nghiên cứu cấu trúc và
phương pháp viết sử tương đối khoa học của các tác giả Mỹ viết sử Việt Nam như
Stanley Karnow (Vietnam: A History), William Duiker (Ho Chi Minh: A Life),
Sophie Quinn-Judge (Ho Chi Minh – The missing years). Tôi tin cuốn sách này đã
xác lập chắc chắn vị trí của anh Huy Đức trong số những người viết sử Việt Nam
hàng đầu
Tôi muốn nhấn mạnh nhận xét về cách tác giả không sa đà vào
phân tích. Điểm này đặc biệt ở chỗ nó khác hoàn toàn văn phong báo chí đã trở
nên quen thuộc của chính tác giả. Giống phần lớn người viết Việt Nam học và làm
nghề viết trong môi trường không đề cao kỹ năng viết, nhà báo Huy Đức có xu hướng
mắc phải những lỗi lập luận đơn giản mà một nhà báo phương Tây chịu sự kiểm tra
kỹ càng của công chúng ít mắc. Tôi sơ cử ra hai lỗi đã thấy ở anh Huy Đức: một
là trích dẫn một nguồn uy tín và coi đó nghiễm nhiên là sự thật và hai là xuất
phát từ định kiến có sẵn khai triển lập luận. Tôi cảm thấy vui mừng khi cảm nhận
thấy anh Huy Đức đã áp dụng một cách thức trình bày và phân tích thông tin dữ
liệu cân bằng, khách quan và bình thản. Cách tác giả đưa ra một lượng thông tin
ngồn ngộn rồi để độc giả tự nghiền ngẫm và quyết định cách phân tích và cảm nhận
theo tôi là cách tốt nhất khi viết về một vấn đề vẫn còn gây tranh cãi, chia rẽ,
xung đột, và kể cả thù hằn là vấn đề chiến tranh Việt Nam.
Tuy vậy, sẽ là nhầm lẫn nếu suy luận từ sự thiếu vắng phân
tích của chính tác giả trong tác phẩm để cho rằng tác giả không có thái độ cụ
thể về chủ đề của tác phẩm. Thái độ của tác giả là gì trong trường hợp này là một
thứ ý tại ngôn ngoại. Trong hoàn cảnh hiện nay ở Việt Nam, gần như tất cả các vấn
đề mà tác giả đề cập đến (cải cách ruộng đất, học tập cải tạo, cải tạo tư sản,
vượt biên có bảo lãnh) vẫn còn là những vấn đề cấm kỵ bị tránh né (dù nhiều điều
đã là các bí mật mở).
Việc tác giả tấn công trực diện từng vấn đề, nêu đích
danh tên từng nhân vật, nhiều người vẫn còn sống còn quyền sinh quyền sát thể
hiện một thái độ dũng cảm đáng kính trọng của tác giả. Sự dũng cảm này còn được
thể hiện trong việc tác giả lựa chọn tự xuất bản sách qua kênh cá nhân như cách
tuyên bố về sự độc lập, sự tự chịu trách nhiệm.
Đây cũng là một sự cẩn trọng cần
thiết đối với một người viết độc lập để giữ được uy tín với công chúng nhằm chống
lại những buộc tội vô cớ chắc chắn sẽ đến về việc tác giả bị mua chuộc bởi các
thế lực. Thái độ của tác giả trong trường hợp này có thể được so sánh như ý đồ
của một nhiếp ảnh gia trưng bày ra một hình ảnh tĩnh của thực tại. Mỗi góc
nhìn, mỗi chi tiết được nhấn mạnh, dưới ánh sáng nào, mầu sắc ra sao vv đều được
tính toán kỹ và có lý do. Mỗi người chắc sẽ có cảm nhận khác nhau về thái độ của
tác giả. Ấn tượng của tôi là về một thái độ tôn trọng sự thật rất đáng cảm phục
và học tập.
Khi nhắc đến thái độ tôn trọng sự thật rất “đáng học tập” của
tác giả, tôi đã để lòi ra một cái đuôi về một xuất thân giống với tác giả là
cùng lớn lên dưới mái trường xã hội chủ nghĩa. “Đáng học tập” hay “đáng biểu
dương” hay “nêu gương” là những lời lẽ định hình chỉ trong môi trường thi đua
phấn đấu của trường học xã hội chủ nghĩa.
Sự tương đồng này dẫn dắt tôi đến một
điểm khác đáng chú ý là việc tác giả là một trong số rất ít những người từ “bên
thắng cuộc” đưa ra một góc nhìn khác về chiến tranh. Thời nay là lúc lý tưởng
cách mạng trong xã hội Việt Nam ta đã nhạt nhòa và người ta không phải quá o ép
lời ăn tiếng nói vì thế từ người bình dân tới cán bộ cao cấp ai ai cũng có thể
nói những lời xét lại về quá khứ mà không sợ bị trừng phạt.
Tuy thế việc
viết ra một cách có hệ thống các quan điểm xét lại này vẫn là điều không được
chấp nhận. Một vài người viết như Bảo Ninh với Nỗi buồn chiến tranh, Dương Thu
Hương với các suy tư về ngày 30/4/1975 đã gặp rắc rối vì các quan điểm xét lại.
Để Huy Đức - một người lớn lên trong xã hội ưu việt miền Bắc, từ nhân dân cần
lao mà ra, được giáo dục từ trong trứng nước về tư tưởng anh hùng xã hội chủ
nghĩa và tính tất thắng của phe ta, lại từng là lính chiến đấu phụng sự sự nghiệp
cách mạng cao đẹp - viết được một tác phẩm xét lại thế này cần một nỗ lực lớn
hơn nhiều lần so với một học giả nước ngoài hay “phe họ”.
Để một cá nhân đã được
lập trình cho quen với vị thế tiện lợi của người chiến thắng, người đúng, phe
chính nghĩa phải suy nghĩ lại, phải phân tích duy lý về vị thế đó và nếu thấy cần
thì rời bỏ nó đòi hỏi những hoàn cảnh, hiểu biết, tính cách cá nhân nhất định.
Một yếu tố quan trọng cần có nhưng khó có ở miền Bắc là óc tư duy phê bình. Những
người như anh Huy Đức, như tôi, như thế hệ của chúng tôi lớn lên chỉ được tiếp
xúc với thông tin một chiều và sự thật một chiều. Sự thật được đóng gói sẵn, cần
là có, rất tiện lợi và ngon lành, việc gì mà phải đi tìm ở đâu nữa?
Trong cái
hang của Plato được giữ đóng và kín này thì lấy đâu ra hạt giống cho những suy
tư khác, cho sự nghi ngờ về việc có tồn tại một thế giới khác bên ngoài hang?
Cái nỗ lực của con kén phải rùng mình chui ra khỏi cái vỏ kín tối thực sự là
đau đớn. Ngoài ra việc anh Huy Đức mới chỉ là cậu bé 13 tuổi khi kết thúc chiến
tranh không có trải nghiệm trực tiếp trong cuộc chiến nhưng vẫn chuyển mình đủ
để sau này trình bày gẫy gọn, súc tích, bình thản về những nỗi buồn chiến tranh
là một tấm gương tôi thấy đáng học tập.
Trở lại câu hỏi về hạt giống nào của sự thật, trong hoàn cảnh
như thế nào đã khởi động quá trình một người thắng cuộc bắt đầu nghi ngờ về vị
thế siêu việt của mình. Tôi cho rằng hạt giống của sự thật thường đến trong
hình hài của những mâu thuẫn.
Suy nghĩ này làm tôi nhớ đến câu cách ngôn đại ý
nếu cứ nói thật thì khỏi cần phải nhớ đã nói gì. Trong thực tế cuộc sống thì những
thứ không phải là sự thật hoặc chỉ là sự thật một chiều – tôi định nghĩa là thứ
sự thật quy ước cục bộ – sẽ bị thách thức khi không gian quy ước cục bộ bị
phá vỡ. Sẽ xuất hiện những bằng chứng về sự mâu thuẫn giữa những thứ không phải
sự thật, sự thật cục bộ, quy ước với những sự thật toàn cục kiểm chứng được. Những
bằng chứng mâu thuẫn sẽ khiến người ta xem xét lại hệ thống niềm tin sẵn có của
người ta. Nhưng trên thực tế để đi từ chỗ bắt đầu xem xét tới chỗ có niềm tin mới
là một quá trình rất dài lâu và khó khăn, càng khó hơn trong môi trường thiếu
thông tin có sự kiểm soát, áp đặt tư tưởng.
Đối với anh Huy Đức, Dương Thu Hương và cả tôi những bằng chứng
mâu thuẫn đầu tiên đến từ chính bên thua cuộc. Những gì chúng tôi được dạy về họ
không giống những thứ chúng tôi quan sát được ở họ. Anh Huy Đức, trong tác phẩm
này, vừa trực tiếp vừa định hướng, đã đưa ra một số lượng khổng lồ các bằng chứng
loại này. Mỗi người đọc có thể tự suy ngẫm và so sánh với niềm tin riêng của
mình. Sự thay đổi về niềm tin nếu có phải là một hành trình cá nhân.
Mười tám năm trước có lần tôi tranh luận mười mấy tiếng đồng
hồ với một người bạn nước ngoài về vấn đề học tập cải tạo sau chiến tranh. Người
bạn đó có một người bạn Việt Kiều ở Thụy sỹ tên là Loan; cha cô Loan đã đi học
tập hơn 10 năm. Người bạn tôi nói rằng việc tập trung cải tạo giam giữ lâu dài
như thế là không cần thiết và vô nhân đạo. Tôi, bên thắng cuộc, nói rằng người
chiến thắng đã hy sinh quá nhiều để giành chiến thắng và có quyền bảo vệ chiến
thắng đấy. Bảo vệ chiến thắng bằng cách cho đối phương học tập cải tạo là lựa
chọn tử tế và nhân đạo hơn so với việc giết họ đi. Tôi cũng nói đám người vượt
biên là đám ô nhục bỏ tổ quốc ra đi vì lý do kinh tế. Cuộc tranh luận bất phân
thắng bại kết thúc bằng việc hai bên không ai chịu ai đều khóc.
Sau khi lớn lên
được tiếp xúc với nhiều nguồn thông tin và nhân vật lịch sử của cả hai bên, được
đọc nhiều sách vở bằng ngoại ngữ, rồi được qua Mỹ học về hành chính và qua đó
thu thập được những công cụ phân tích cơ sở, tôi đã dần dần tự luận ra được nhiều
điều.
Giờ đây nhiều năm sau tôi tự cảm thấy đã có những niềm tin khác cân bằng
và ôn hòa hơn. Là người sinh ra sau chiến tranh, gia đình không mất ai trong
chiến tranh, hiện không hoạt động chính trị hay tham gia đảng phái nào (tôi
cũng chỉ có một đảng là đảng Việt Nam), dựa trên những hiểu biết tự thu thập và
xử lý, với tuyên bố rằng không ai mua chuộc hay ép buộc tôi, tôi nói nhân danh
cá nhân tôi rằng những gì đã xảy ra, đặc biệt trong thời hậu chiến, như anh Huy
Đức đã kể ra rành mạch trong tác phẩm này của anh, quả thực là quá oan ức và đau
khổ cho miền Nam. Vì điều đó nhân danh chỉ cá nhân tôi tôi muốn được xin lỗi.
FB AnhGauPham
Xin lỗi muộn thế-Tôi có người nhà chạy vào Nam, sau 1975, mừng và sướng thấy mồ, nhưng cứ giả dối Hồ hỡi, bênh vực CS- 20 năm sau mới thú thật mình giả dối !
Trả lờiXóaCS là bọn CƯỚP, hết.