Ngô Bắc* dịch
Lời Người Dịch:
“Chiến dịch 1979, ít nhất đối với Quân Đội Giải Phóng của
Nhân Dân Trung Quốc, là một sự thất bại. Trung Quốc đã phóng ra cuộc tấn công của
nó trong một nỗ lực để buộc Việt Nam phải rút lui khỏi Căm Bốt. Trung Quốc đã
rút lui khỏi Việt Nam hôm 16 Tháng Ba, 1979, nhưng Việt Nam đã không rời Căm Bốt
mãi cho đến năm 1989.” ….
“Cuộc chiến tranh theo học thuyết họ Mao chưa dứt, nhưng
phía Trung Quốc đã học được một bài học quan trọng.”
Trên đây là phần kết luận chắc nịch của Edward C. ODow’d, một
tác giả hàng đầu về Chiến Tranh Biên Giới Trung Quốc – Việt Nam Năm 1979, chủ đề
của loạt bài nghiên cứu dưới đây về biến cố quan trọng diễn ra 33 năm trước.
Đối
chiếu với bài học lịch sử lâu dài của đất nước, rõ ràng vấn đề sinh tử của dân
tộc Việt Nam hiện nay là phải tìm mọi cách đê duy trì được sự độc lập và vẹn
toàn lãnh thố, đồng thời thoát ra khỏi sự lệ thuộc ngoại giao và quân sự đáng tủi
hổ đối với Trung Quốc.
Vào rạng sáng ngày 17
Tháng Hai 1979, Quân Đội Giải Phóng Của Nhân Dân Trung Quốc (viết tắt:
QĐGPNDTQ; tiêng Anh là People’s Liberation Army: PLA) với một lực lượng
được ước lượng là 75,000 quân đã phóng ra một cuộc tấn công toàn diện dọc theo
biên giới dài Trung Quốc – Việt Nam dài 450 dặm. Mặc dù được báo trước bởi
phía Trung Quốc về ý định của họ nhằm “trừng phạt” Việt Nam, thế giới vẫn bị sửng
sờ vì cuộc tấn công. Phía Trung Quốc bị chỉ trích vì việc chơi “trò mạo
hiểm bên bờ vực thẳm: brinkmanship” có thể đẩy thế giới vào Thế Chiến III nếu
Nga Sô, nước vừa mới ký một hiệp ước hòa bình với Việt Nam, kể cả một thỏa thuận
về sự trợ giúp quân sự hỗ tương, quyết định nhảy vào can thiệp. 1
Tuy
nhiên, phía Trung Quốc đã nhấn mạnh rằng quyết định tấn công Việt Nam đã được
đưa ra sau khi “suy tính thông suốt” và rằng nó đã “cứu xét đến toàn bộ tình
hình chiến lược ”. 2 Điều gì đã thúc đẩy chiến dịch đánh Việt Nam của
trung Quốc, một hành động mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc phải hiểu là sẽ có
nguy cơ đối diện với một cuộc chiến tranh rộng lớn hơn với Liên Bang Sô Viểt?
Phía Trung Quốc đã tính toán các bất trắc như thế nào? Các loại chiến lược nào
mà Bắc Kinh đã chấp nhận để né tránh sự chạm trán rộng lớn hơn với Nga Sô và
quy tụ sự ủng hộ cho cuộc viễn chinh của nó tại Việt Nam? Trung Quốc có đạt được
các mục tiêu của nó hay không? Bài viết này sẽ khảo sát và gắng sức trả lời các
câu hỏi này.
CĂN NGUYÊN
Căn nguyên của chiến
tranh biên giới Trung Quốc – Việt Nam có thể truy tìm dấu vết nơi sự thù hận lịch
sử lâu 2,000 năm giữa hai dân tộc. 3 Người Việt Nam vẫn còn mang các
ký ức đau khổ về sự thống trị của Trung Quốc và có khuynh hướng ngờ vực bất kỳ
chuyển động nào của Trung Quốc tiến tới các quan hệ chặt chẽ hơn như là một ý đồ
để tái lập vai trò không chế truyền thống của Trung Quốc.
Sau khi chiến
tranh Việt Nam kết thúc năm 1975, điều rõ ràng rằng tình đồng chí chặt chẽ giữa
hai nước trong hai thập niên trước đó chỉ có tính cách tạm thời và có lẽ được
nhìn như một biện pháp thời chiến bởi Hà Nội và Bắc Kinh (Trung Quốc nhận thấy
chiến tranh Việt Nam, được giao tranh tại sân sau của mình, như một sự đe dọa
nghiêm trọng đến an ninh quốc gia của Trung Quốc). Các quan hệ giữa hai
nước cộng sản suy đồi một cách mau lẹ khi các nhà lãnh đạo Trung cộng quyết định
cắt giảm các chương trình viện trợ và các sự trợ giúp khác cho Hà Nội sau cuộc
thông nhất hai miền Việt Nam. Bắc Kinh có thể miễn cưỡng, như bị tố giác
bởi Hà Nội, không muốn có một nước Việt Nam uy thế và mạnh về quân sự tại biên
giới phía nam của Trung Quốc. Tuy nhiên, khả năng của Trung Quốc để giúp
đỡ Hà Nội bị trở ngại bởi các khó khăn kinh tế nội tại nghiêm trọng của chính
nó, do kết quả của sự xáo trộn chính trị, các vụ động đất nặng nề, và các thiên
tai khác. 4
Cuộc cãi cọ công khai
sau cùng đã bùng nổ trong Tháng Ba 1978 khi Hà Nội phóng ra chiến dịch tập thể
hóa tại Miền Nam. Chiến dịch, cấm đoán mọi hoạt động tư sản mại bản và tịch
thu tài sản, ảnh hưởng nghiêm trọng nhất đến các người Việt gốc Hoa tương đối
giàu có và chính vì thế đã dẫn tới cuộc di cư tỵ nạn ồ ạt của họ.
Các người
Việt gốc Hoa chạy trốn gây bối rối cho Bắc Kinh. Bất kỳ phản ứng thái quá
nào trước chính sách của Hà Nội chắc chắn sẽ khơi dậy các sự ngờ vực tại
các nước Đông Nam Á nơi có số người gốc Hoa đáng kể; lơ là vân đề tỵ nạn, mặt
khác, có thể làm mất sự ủng hộ của Hoa Kiều hải ngoại, các kẻ có các sự đóng
góp tài chính cho nỗ lực hiện đại hóa của Trung Quốc nhất thiết cần có và được
ve vãn bởi Bắc Kinh. Tất nhiên, việc băng ngang biên giới Hoa-Việt của một khối
lượng đông đảo người Việt gốc Hoa đã dẫn đến các sự đụng độ nhỏ giữa quân biên
phòng cùng các sự cáo giác và phản cáo giác về các sự khiêu khích. Các
quan hệ thù nghịch giữa Bắc Kinh và Hà Nội đã đi đến một khúc ngoặt quyết liệt,
tồi tệ hơn khi Hà Nội khởi sự chiến dịch mùa khô của nó chống lại chế độ Pol
Pot tại Kampuchea; sự thất thủ của Phnom Penh là dấu hiệu cho sự bắt đầu một cuộc
chiến tranh khác tại Đông Dương.
Hình ảnh, được phác họa
bởi Bắc Kinh, về một Hà Nội kiêu căng, hiếu chiến, tự khoe mình như quyền lực
quân sứ lớn thứ ba thế giới, có lẽ bị thâm xưng và xuyên tạc. Bị phiền
nhiễu bởi các khó khăn kinh tế trong nước và phải đối diện với công tác đáng sợ
nhằm tái thiết xứ sở của họ sau nhiều thập niên chiến tranh, các nhà lãnh đạo của
Hà Nội, một cách dễ hiểu, hăng hái để duy trì các quan hệ thân thiết với các nước
khác kể cả Trung Quốc và ngay với Hoa Kỳ, đối thủ chính của họ trong cuộc Chiến
Tranh Đông Dương.
Trong thực tế, cho đến tận mùa xuân 1978, các nhà lãnh
đạo ôn hòa [sic] của Hà Nội đứng đầu bởi Thủ Tướng Phạm Văn Đồng đã không từ bỏ
các nỗ lực của họ nhằm tìm kiếm sự giúp đỡ tài chính và các trợ giúp khác từ
các nước sẵn lòng chấp nhận Việt Nam. Một phần vì sự lơ là và từ khước của
Hoa Thịnh Đốn trong việc nhìn nhận chế độ Hà Nội (bất kể sự sẵn lòng của Hà Nội
để bỏ hết các điều kiện tiên quyết cho các cuộc đàm phán với Mỹ [?]) đã khiến
Hà Nội lo ngại – bị cô lập về mặt ngoại giao, kinh tế trong cơn khủng hoảng, và
bị thách đố về mặt quân sự bởi Trung Quốc. 5
Hơn nữa, Trung Quốc đã
hoàn tất vào giữa năm 1978 việc rút lại viện trợ của nó cho Hà Nội. Hà Nội
khi đó không còn lá bài nào để chơi với Mạc Tư Khoa và đã trở thành, trong
Tháng Sáu 1978, một hội viên chính thức của khối COMECON. Việc ký kết hiệp
ước hữu nghị 25 năm vào ngày 3 Tháng Mười Một 1978 giữa Liên Bang Sô Viết và Việt
Nam đã chính thức khóa chặt sự gia nhập của Việt Nam vào phe Sô Viết. Các
kẻ ôn hòa trong giới lãnh đạo Việt Nam kể từ đó bị thất thế với phe cứng rắn
thân Sô Viết là các kẻ bênh vực một lập trường cứng rắn và các chính sách không
nhân nhượng đối với Trung cộng. Diễn trường chính vì thế đã được sắp sẵn
cho sự đối đầu quân sự giữa hai nước cộng sản Á Châu.
CÁC ĐỘNG LỰC CỦA TRUNG QUỐC
Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra một bản tuyên bố vào ngày đầu
tiên trong chiến dịch Việt Nam của Trung Quốc, cho hay rằng các binh sĩ Trung
Quốc “bị buộc phải gây nên một cuộc hoàn kích tự vệ” bởi vì có sự “khiêu khích
vũ trang không ngừng và các hoạt động thù nghịch” của Việt Nam tại các khu vực
biên giới”.
Bản văn tái xác đinh, “Khi người khác không đụng chạm đến
chúng tôi, chúng tôi sẽ không đụng chạm tới các người khác, nhưng nếu bất kỳ một
ai đụng chạm chúng tôi, chúng tôi chắc chắn sẽ đánh lại”. Các mục tiêu của
cuộc tấn công ‘trừng phạt” của Trung Hoa là nhằm bảo đảm cho một “biên giới hòa
bình và ổn định”, bản tuyên bố nói thêm. Bản tuyên bố đã không đề cập đến
vụ xâm lăng của Việt Nam vào Kampuchea, điều chọc giận các nhà lãnh đạo Bắc
Kinh là các kẻ đã nhiều lần ám chỉ rằng Trung Quốc có thể dạy cho Hà Nội
một bài học vì hoạt động của Hà Nội tại Kampuchea.
Ngay trước khi có cuộc
tấn công mùa khô quy mô rộng lớn của Việt Nam chống lại chế độ Pol Pot, Bắc
Kinh đã sẵn cứu xét các hành động quân sự khả hữu nhằm ngăn chặn chiến dịch của
Hà Nội tại Đông Dương. Tại một cuộc hóa báo tại Bangkok hồi Tháng Mười Một
qua [1978], Phó Thủ Tướng Đặng Tiểu Bình nói rằng Trung Quốc “sẽ quyết định
phương cách đối phó với chính sách bá quyền cấp vùng của Việt Nam, tùy thuộc
vào việc Hà Nội thực hiện đên đâu cuộc xâm lược của nó đôi với Kampuchea”. 7
Tuy
nhiên, họ Đặng công khai hơn khi nói về sự trừng phạt khả hữu đối với cuộc xâm
lăng của Việt Nam sau khi có sự sụp đổ của Phnom Penh. Trong cuộc thăm viếng
vừa qua của ông ta tại Hoa Kỳ, họ Đặng nói về việc trừng trị “Cuba Phương Đông”
vì sự xâm lăng vũ trang của họ vào Kampuchea và các sự khiêu khích dọc các khu
vực biên cương Trung Quo6c’. “Nếu bạn không dạy cho chúng vài bài học cần
thiết, chúng sẽ không hiểu phải quấy là gì”, họ Đăng tuyên bố. 8
Một trong các mục tiêu
chính của Trung Quốc rõ ràng là để rút bộ đội Việt Nam ra khỏi Kampuchea và
Lào và phân tán mỏng sức mạnh quân sự của Việt Nam, từ đó làm suy yếu
năng lực của Việt Nam dồn cho sự bành trướng hơn nữa tại Đông Dương. Phía Trung
cộng hy vọng rằng “với chiến trường bị căng mỏng quá độ, các khu vực hậu phương
phòng vệ yếu kém, và các tiếp liệu của họ bị thiếu thốn”, Việt Nam sẽ bị “sa
vào trong một vũng lầy “ tại Kampuchea. 9
Mục tiêu này của Trung Quốc
được xác nhận một cách gián tiếp bởi áp lực tăng cường đồng thời từ các lực lượng
du kích lãnh đạo bởi Pol Pot đánh vào bộ đội Việt Nam tại Kampuchea khi biên giới
phía bắc của Việt Nam nằm dưới cuộc tấn công quy mô của Trung Quốc. Sự vắng
bóng mục tiêu được che dấu này của Trung Quốc trong bản tuyên bố “hoàn kích tự
vệ” của Bắc Kinh hiển nhiên không phải là sự sơ sót mà là có cân nhấc và tính
toán. Nó có thể chủ ý dành cho Việt Nam một cơ hội để triệt thoái bộ đội
ra khỏi Kampuchea mà không bị mất mặt; và không cung cấp cho Mạc Tư Khoa một
duyên cớ tương tự nào khác (bằng việc tố cáo cuộc xâm lăng của Trung Quốc vào
lãnh thổ Việt nam) để can thiệp nhân danh Việt Nam.
Một mục tiêu khả hữu
khác của Trung Quốc, song bị bỏ qua trong tất cả các lời tuyên bố chính thức và
các lý do hiển nhiên, rằng việc phóng ra một cuộc chiến tranh hạn chế như một
“sụ thao diễn quân sự”. 10 Một số các nhà lãnh đạo quân sự Trung Quốc
rõ ràng quan tâm về sự thiếu kinh nghiệm chiến trường của quân đội Trung cộng.
Trung Quốc đã không giao tranh bất kỳ cuộc chiến đại quy mô nào trong gần ba
mươi năm kể từ Cuộc Chiến Tranh Triều Tiên. Đa số các cấp chỉ huy của nó ở
cấp trung đoàn chưa hề tham dự một chiến trận nào. Cuộc chiến tranh biên
giới chính vì thế sẽ là một sự thử nghiệm cụ thể cho khả năng chiến đấu và hiệu
năng động viên của QĐGPNDTQ. Mục tiêu không được nói ra này được hậu thuẫn
bởi sự điều động binh sĩ được tường thuật từ mười trong mười một Quân Khu của
Trung Quốc đến Mặt Trận Phương Nam. 11 Nhưng, không có mấy xác xuất rằng
Bắc Kinh sẽ tấn công Việt Nam chỉ để nhằm thu hoạch kinh nghiệm chiến đấu cho
quân đội của nó. Làm như thế là đùa với lửa và Trung Quốc, hơn ai hết, hiểu
rõ rằng “kẻ nào đùa với lửa sẽ tự thiêu hủy mình”. Mục tiêu này có thể được
dùng bởi các nhà lãnh đạo quân sự cứng rắn để chứng minh cho ước muốn của họ nhằm
trừng phạt quân đội Việt Nam liều lĩnh.
Mặt khác, sự nhấn mạnh
của Bắc Kinh về “cuộc hoàn kích” các sự đột nhập của Việt Nam một phần nhằm
nâng cao tinh thần của QĐGPNDTQ. Giới lãnh đạo Bắc Kinh có thể bị chất vấn
bởi các sự chỉ trích nội địa, đặc biệt từ lớp người trẻ, về quyết định của nó để
phóng ra một cuộc tấn công toàn diện vào một kẻ có thời từng là “chiến hữu”.
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc dường như tin tưởng, rõ ràng từ các bài học của các
cuộc chiến tranh biên giới trước đây của Trung Quốc với Ấn Độ và Liên Bang Sô
Viết, rằng phương cách tốt nhất để nâng cao tinh thần binh sĩ là quyền hạn thường
được tuyên xưng để phòng vệ tính “bất khả xâm phạm” của các biên giới Trung Quốc.
Hơn nữa, chính phủ Trung Quốc đã cố gắng động viên tinh thần bằng việc khơi dậy
sự hận thù trong các binh sĩ Trung cộng đối với Hà Nội. Ngay sau khi có
cuộc tấn công, bài quan điểm của ban biên tập tờ Renmin Ribao (Nhân
Dân Nhật Báo) đã đổ lỗi cho Hà Nội về sự bùng nổ của chiến tranh. 12 Chính
phủ Việt Nam bị tố cáo đã phản bội tình hữu nghị và sự tín nhiệm được thiết lập
từ lâu giữa dân tộc của hai nước. Nhắc lại viện trợ “vô vị kỷ” của Trung
Quốc cho Việt Nam và sự cực khổ phải chịu đựng bởi nhân dân Trung Quốc và
QĐGPNDTQ trong việc giúp đỡ Việt Nam chiến đấu chống lại người Mỹ, bài quan điểm
của ban biên tập đã phác họa một cách linh động về giới lãnh đạo Hà Nội như các
kẻ bành trướng vô ơn, theo đuổi một cách liều lĩnh các mục đích của chủ nghĩa
bá quyền cấp miền của nó làm phương hại cho Trung Quốc và các nước khác tại
Đông Dương. Cùng chủ đề đã được lập lại ngày sau đó trong một bài quan điểm
ban biên tập của tờ Jiefang Junbao kêu gọi QĐGPNDTQ hãy bảo vệ sự xây
dựng công tác hiện đại hóa của Trung Quốc bằng cách đánh trả mạnh mẽ vào “quân
xâm lược” Việt Nam. 13
Các nhà lãnh đạo Trung
Quốc khá im lặng trên một số trong các mục tiêu hiển nhiên của họ có vẻ nhạy cảm
về mặt chính trị và ngoại giao với các nước khác. Các nhà lãnh đạo ở Bắc
Kinh rõ ràng bị tức giận bởi các chính sách của Hà Nội đối với người Việt gốc
Hoa. Họ đã phản đối các cáo buộc của Hà Nội chống lại người gốc Hoa bằng
việc lập luận rằng đại đa số các người bị cưỡng bách rời khỏi Việt nam là các
công nhân chứ không phải là tư sản và mại bản. 14
Tuy nhiên, chính phủ
Trung cộng, hay biết về các sự nhạy cảm của các nước Đông Nam Á liên hệ đến vấn
đề Hoa kiều hải ngoại, chính vì thế, Bắc Kinh đã hạ thấp phản ứng của nó và chỉ
trưng dẫn sơ lược rằng sự đối xử của Hà Nội đối với người gốc Hoa đã là một
trong các lý do để trừng phạt Việt Nam.
Nhạy cảm không kém đối với các
lân bang của Trung Quốc là vấn đề lãnh thổ. Bất kể lời tuyên bố của Bắc
Kinh rằng Trung Quốc không muốn “dù chỉ một tấc” đất của lãnh thổ Việt Nam, điều
rõ ràng là gần lúc kết thúc cuộc chiến tranh biên giới, các bộ đội Trung Quốc
đã chủ định giữ lại một vài khu vực chiến lược tại biên giới. Mặc dù phần
lớn các sự chiếm đóng có thể chỉ liên hệ đến các khu vực “tranh chấp” như được
tuyên bố bởi Trung Quốc, Bắc Kinh dù thế nhận thấy khó khăn để biện minh cho
hành động của nó. Các chuyển động này của Trung Quốc có thể cảnh báo Mạc
Tư Khoa và New Delhi và gây phương hại cho sự giải quyết các tranh chấp biên giới
của Trung Quốc với hai nước này.
Một động lực khả hữu
khác của Trung Quốc là để bày tỏ với thế giới, đặc biệt với các nước Á Châu, rằng
Trung Quốc không phải là một con hổ giấy hay yếu thần kinh. “Chúng tôi,
Trung Quốc, thì nghiêm chỉnh với những gì chúng tôi phát biểu”, Đặng Tiểu Bình
tuyên bố. “Bất luận đó là chủ nghĩa bá quyền toàn cầu hay chủ nghĩa bá
quyền địa phương, Trung Quốc luôn luôn chấp nhận một lập trường vững chắc, một
thái độ vững chắc”, họ Đặng nói thêm. 15
Đã có một cảm nhận sâu xa
trong các nhà lãnh đạo Trung Quốc rằng Trung Quốc phải đứng lên và phô bày rằng,
khác với người Mỹ lo sợ chiến tranh, Trung Quốc không sợ sệt để chiến đấu chống
lại các sức mạnh vĩ đại. “Chúng tôi không để cho Liên Bang Sô Viết đối xử
với chúng tôi như đối với Nhật Bản và các quyền lực thực dân khác đã từng đối xử
với chúng tôi trong quá khứ”, một viên chức Trung Quốc đã nói trong khi bào chữa
cho cuộc tấn công của nước ông ta.16
Họ Đặng đã nhấn mạnh cảm thức này bằng
việc vạch ra rằng nhân dân Trung Quốc “không thể tha thứ cho bất kỳ sự xâm lược
nào chống lại họ để có thể bị giải thích sai lạc như sự thờ ơ hay yếu kém, hay
ngược lại sẽ bị xô đẩy vòng vòng”. 17
Bắc Kinh rõ ràng đã hy vọng để
bày tỏ cho thế giới rằng nước Nga hùng mạnh có thể bị thách đố về mặt quân sự
và rằng sự nhượng bộ sẽ không có hiệu quả để chống lại chủ nghĩa bá quyền.
Nó tuyên bố rằng cuộc viễn chinh sang Việt Nam của nó nhằm giáng một “cú đánh
hiệu nghiệm vào ý đồ của Sô Viết muốn xâm lược và bành trướng tại Đông Nam Á”. 18
Cùng
lúc, sự thao diễn cơ bắp này cũng nhằm để phá tan huyền thoại về sự bất khuất
quân sự của Việt Nam. Bắc Kinh rõ ràng sẽ cương quyết để phô bày cho Hà Nội
rằng Trung Quốc, chứ không phải Việt Nam, là quyền lực quân sự lớn mạnh thứ ba
trên thế giới và cảnh cáo Hà Nội hãy đình chỉ chính sách bành trướng của nó tại
Đông Nam Á, nơi mà Trung Quốc đã có các sự quan tâm đặc biệt. Nó cũng có
thể đã hy vọng rằng bằng một chiến thắng thuyết phục trên Việt Nam, một sự biểu
lộ rõ ràng rằng Hà Nội sau rốt không có gì đáng phải nể sợ, các nước trong khối
ASEAN sẽ cứng rắn hơn trong các chính sách của chúng đối với Việt Nam.
Hơn nữa, bằng việc phô diễn cho Việt Nam thấy sức mạnh quân sự của nó, Bắc Kinh
có thể hy vọng cảnh cáo Hà Nội đừng “nghiêng” quá xa về phía người Nga.
Ác mộng của Bắc Kinh là “liên minh thần thánh” giữa Mạc Tư Khoa và Hà Nội âm
mưu bao vây Trung Quốc từ Phương Nam. 19
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc
đặc biệt quan ngại về ý định đáng nghi ngờ của Sô Viết nhằm sử dụng Vịnh Cam
Ranh của Việt Nam như một căn cứ thường trực cho hạm đội Thái Bình Dương của
nó, một chuyển động có thể làm thay đổi một cách mạnh mẽ cán cân quân sự của
các nước tại vùng Á Châu – Thái Bình Dương.
Sau cùng, với các sự lo
ngại quá lớn và các sự bận tâm với các chương trình hiện đại hóa, họ có thể bực
bội và tức giận bởi các sự đụng độ nhỏ ở biên giới với Việt nam, và đã quyết định
chấm dứt một lần và dứt khoát mọi biến cố gây xáo trộn về mặt kinh tế bằng một
cuộc tấn công toàn diện. Cuộc hoàn kích của QĐGPNDTQ được biện minh bởi
chính phủ Trung Quốc là một động tác cần thiết để bình định biên giới và để đạt
được một môi trường hòa bình và ổn định cho nỗ lực canh tân hóa của Trung Quốc.
Vào ngày 6 Tháng Ba, một ngày sau khi có sự loan báo của Trung Quốc về việc triệt
thoái binh sĩ của nó, một bài báo trên tờ Renmin Ribao ghi nhận rằng
sự chiến thắng của Trung Quốc trong trận chiến biên giới Hoa-Việt sẽ xúc tiến
các kế hoạch hiện đại hóa, có bổ túc rằng nhân dân Trung Quốc phải học tập từ
“tinh thần không sợ hy sinh” của QĐGPNDTQ. 20
Tuy nhiên, các chuyên
viên về chính sách ngoại giao Trung Quốc khó đồng ý về các động lực của Trung
Quốc trong việc tấn công Việt Nam. Các sự giải thích thay thế khác về tác
phong của Trung Quốc được đưa ra bởi các quan sát viên Trung Quốc theo thời.
Theo một sự giải thích phổ biến, mục tiêu chính của Trung Quốc trong chiến dịch
Đông Dương của nó là làm chậm lại hay ngăn cản sự tiến bộ của SALT II và các biện
pháp hòa hoãn khác giữa Hoa Kỳ và Liên Bang Sô Viết.
Thí dụ, Bắc Kinh đã
thỏa hiệp trong Tháng Mười Hai qua [1978] trên vấn đề then chốt về Đài Loan và
khai thông con đường cho sự bình thường hóa các quan hệ Trung Quốc – Hoa Kỳ
ngay vào lúc Hoa Thịnh Đốn và Mạc Tư Khoa có vẻ sắp đạt được các thỏa thuận về
SALT II. Cuộc thăm viếng của Phó Thủ Tướng cao cấp của Trung Quốc, Đặng
Tiểu Bình, tại Hoa Thịnh Đốn chưa đầy ba tuần trước khi có trận tấn công của
Trung cộng được nhìn bởi một số quan sát viên như là một động tác chủ ý của
Trung Quốc để khơi dậy các mối ngờ vực của Sô Viết về sự cộng tác Trung Quốc –
Mỹ.
Bất kể các lập luận xem ra thuyết phục này, chúng ta không được nhầm
lẫn giữa các động lực của Trung Quốc với các chiến lược của nó. Có thể
không mấy nghi ngờ rằng Bắc Kinh đã lợi dụng các quan hệ tế nhị giữa Sô Viết –
Mỹ trong việc lựa chọn thời biểu cho cuộc tấn công của nó vào Việt Nam.
Tuy nhiên, không có nhiều xác xuất rằng mục tiêu của Trung Quốc chính yếu nhằm
ngăn cản sự hòa hoãn giữa hai siêu cường. Trước tiên các nhà lãnh đạo
Trung Quốc hẳn phải hay biết trọn vẹn rằng việc ve vãn sự ủng hộ của Hoa Kỳ cho
chiến dịch Đông Dương của nó có thể có hiệu ứng dội ngược và cảnh báo các nhà
lãnh đạo Sô Viết, các kẻ không muốn nhìn thấy sự phát triển của bất kỳ liên
minh Hoa Kỳ - Trung Quốc nào chặt chẽ hơn, để chấp nhận một lập trường hỏa giải
hơn đối với Hiệp Ước SALT II và các quan hệ khác với Hoa Kỳ. Hơn nữa,
phía Trung Quốc có thể luôn luôn sử dụng các biện pháp ít rủi ro hơn và hiệu quả
hơn, chẳng hạn như mở cửa thị trường khổng lồ của nó cho hàng xuất cảng của Hoa
Kỳ, hầu lôi cuốn chính quyền Carter nghiêng về phía Trung Quốc.
Theo một lý thuyết
khác, cuộc tấn công của Trung Quốc là một mưu tính của Đặng Tiểu Bình nhằm củng
cố các cảm thức dân tộc chủ nghĩa trong nội địa Trung Quốc đứng sau sự lãnh đạo
của ông.
Bởi việc chuyển hướng sự chú y nội địa đến chiến tranh, một số
các nhà quan sát Trung Quốc lập luận, sự chống đối trong nước đối với các chính
sách của họ Đặng có thể bị dập tắt. “Không có gì tốt hơn một tình trạng
chiến tranh để thông nhất dân chúng”, một học giả Trung Quốc đã bình luận. 21
Tuy
nhiên, có nhiều khuyết điểm trầm trọng trong cách lập luận này. Trước
tiên, sự hợp lý cho thấy rằng họ Đặng có thể tạo ra nhiều chứ không phải là bớt
đi sự chống đối cho quyền lãnh đạo của ông qua việc đánh liều an ninh của xứ sở
ông. Thứ nhì, không thể nghĩ được rằng họ Đặng là con người duy nhất đứng
đàng sau quyết định tấn công. Bởi làm như thế, ông có thể tự đặt mình mở
ngỏ trước các sự chỉ trích nghiêm trọng của các thành viên khác trong Bộ Chính
Trị nếu QĐGPNDTQ không đạt được các mục tiêu của cuộc phiêu lưu.
Theo một
nguồn tin, Bộ Chi Huy Cao Cấp (high Command) của ĐCSTQ (CPC) có triệu tập một
phiên họp hôm 16 Tháng Hai tại Bắc Kinh liên quan đến cuộc chiến tranh biên giới
chống Việt Nam. Phiên họp này được chủ tọa bởi Chủ Tịch Hoa Quốc Phong, mặc
dù chính Đặng Tiểu Bình là người đã đưa ra báo cáo giải thích các mục tiêu của
Trung Quốc trong các sự chuẩn bị cho chiến tranh. Các nhân vật khác tham
dự phiên họp gồm các thành viên của Ủy Ban Trung Ương ĐCSTQ đang có mặt tại Bắc
Kinh, các bộ trưởng và thứ trưởng của Hội Đồng Nhà Nước, và các người trách nhiệm
của Quân Ủy của ĐCSTQ. Không có sự trùng hợp rằng một ngày trước khi có
phiên họp được viện dẫn, tờ Renmin Ribao có công bố một bài viết nhấn
mạnh đến sự cần thiết để thành lập một sự lãnh đạo tập thể trong cuộc “Trường
Chinh” mới của Trung Quốc tiến tới sự hiện đại hóa. 23
Sau cùng, thật
đáng nghi ngờ rằng họ Đặng lại có bao giờ đạt được một vai trò chế ngự như thế
trong hệ cấp giới lãnh đạo của Trung Quốc. Ngay một nhà lãnh đạo lôi cuốn
như Mao Trạch Đông đã không thể cưỡng hành chính sách của mình mà không gặp phải
sự chống đối từ các đồng sự tại Bộ Chính Trị của ông ta. 24
(còn tiếp)
__________________________
CHÚ THÍCH
1. Xem, thí dụ, quan điểm ban biên tập tờ New York
Times, 19 Tháng Hai 1979, và tờ Globe and Mail, Toronto, 20, 26 Tháng Hai,
1979.
2. Renmin Ribao (Nhân Dân Nhật Báo , quan điểm ban
biên tập, 7 Tháng Ba 1979 (được in lại trong tờ Beijing Review, 16 Tháng
Ba 1979).
3. Muốn có một sự tường thuật chi tiết hơn về nguồn gốc cuộc
xung đột Trung Quốc – Việt Nam, xem Nguyễn Mạnh Hùng, “The Sino-Vietnam
Conflict: Power Play Among Communist Neighbours”, Asian Survey, tập xix, số
11, Tháng Mười Một 1979, các trang 1037-52.
4. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc có yêu cầu giới lãnh đạo Hà Nội
sau chiến tranh Việt Nam nên chờ đón khoản viện trợ ít hơn từ Trung Quốc và để
cho nhân dân Trung Quốc thời gian nghỉ ngơi và cho phép Trung Quốc phục hồi sức
mạnh”, Beijing Review, 16 Tháng Sáu 1978, trang 16.
5. Derek Davies, “Carter’s Neglect, Moscow’s Victory”, Far
Eastern Economic Review, 2 Tháng Hai 1979, các trang 16-21; cũng xem Peter
Weiss, “Contributory Negligence in Foreign Policy”, New York Times, 2
Tháng Ba 1979.
6. Renmin Ribao, 18 Tháng Hai 1979 (được in lại trong tờ Beijing
Review, 23 Tháng Hai, 1979).
7. Renmin Ribao, 9 Tháng Mười Một 1978 (cũng xem tờ Beijing
Review, 17 Tháng Mười Một, 1978).
8. Beijing Review, 9 Tháng Hai 1979, trang 13; và New
York Times, 1 Tháng Hai 1979.
9. Beijing Review, 16 Tháng Hai 1979, trang 24.
10. Theo một nguồn tin không được xác nhận của chúng tôi, Đặng
Tiểu Bình trong bản báo cáo của ông tại một phiên họp của Đảng Công Sản Trung
Quốc (ĐCSTQ) (Communist Party of China: CPC) hôm trước khi có cuộc tấn công của
Trung Quốc có đề cập đến “việc thao diễn quân sự” như một trong các mục tiêu của
cuộc chiến tranh với Việt Nam. Xem, “Deng Xiaoping on Sino-Vietnamese
War”, Qishi Niandai (Thất Thập Niên Đại (The Seventies, Monthly), Hồng
Kông, số 4, 1979. Tài liệu này được in lại bằng Anh ngữ trong tạp chí China
Report, Tập xv, số 3, Tháng Năm – Tháng Sáu 1979.
11. Harlan W. Jencks, “China’s ‘Punitive War’ on Vietnam: A
Military Assessment”, Asian Survey, tập xix, số 8, Tháng Tám 1979, các
trang 801-15.
12. Renmin Ribao, 18 Tháng Hai 1979.
13. Jiefang Junbao, 19 Tháng Hai 1979.
14. Trung Cộng có ấn hành một số bài báo và lời tuyên bố đặc
biệt liên quan đến cuộc di cư của người Việt gốc Hoa. Xem, thí dụ, Beijing
Review, 16 Tháng Sáu 1978 và 17 Tháng Mười Một 1978.
15. Beijing Review, 16 Tháng Hai 1979, trang 18.
16. Christian Science Monitor, 7 Tháng Ba 1979.
17. New York Times, 20 Tháng Hai 1979.
18. Beijing Review, 15 Tháng Ba 1979, trang 17.
19. Xem Beijing Review, 24 Tháng Mười Một và 22 Tháng
Mười Hai 1978.
20. Renmin Ribao, 6 Tháng Ba 1979.
21. New York Times, 19 Tháng Hai 1979. Lời bình
luận được đưa ra bởi Franz Schurmann, một nhà Trung Hoa học nổi tiếng.
22. ‘Deng Xiaoping on Sino-Vietnam War’, Qishi Niandai, đã
dẫn trên. Tin tức về phiên họp của ĐCSTQ được thuật lại bởi một du khách
sang Trung Quốc có thân nhân là cán bộ ĐCSTQ. Mặc dù là một sự tường thuật
qua tay thứ ba, tin tức phán đoán từ các biến cố diễn tiến, xem ra có thể tin cậy
một cách hợp lý.
23. Renmin Ribao, 15 Tháng Hai 1979.
24. Parris H. Cheng, Power and Policy in China, the
Pennsylvania State Press, 1975.
______________________________
*Về dịch giả Ngô Bắc
Ngô Bắc là bút hiệu của Ngô Ngọc Trung, Tốt nghiệp Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, và đại học Luật Khoa Sài Gòn, 1972. Với tư cách là chuyên viên nghiên cứu tại Văn Khố Đông Dương (Indochina Archives), của viện Institute For East Asian Studies, UC Berkeley, trong suốt thập niên 1990, ông đã thực hiện nhiều công trình nghiên cứu về Việt Nam như:
- Hạ Tầng Cơ Sở Của Giao Thông Và Viễn Thông Việt Nam,
- Ngư Nghiệp Và Thủy Hải Sản Việt Nam,
- Triển Vọng Xuất Cảng Các Loại Cây Kỹ Nghệ Của Việt Nam,
- Vấn Đề Chuyển Giao Công Nghệ, Giáo Dục Việt Nam,
- Bang Giao Hoa Kỳ - Việt Nam ...
Ông cũng là một trong những người tham gia việc biên soạn bộ Bách Khoa Tự Điển Encyclopedia of the Vietnam War, A Political, Social, And Military History, do nhà xuất bản ABC - CLIO, Inc phát hành năm 1998
- Triển Vọng Xuất Cảng Các Loại Cây Kỹ Nghệ Của Việt Nam,
- Vấn Đề Chuyển Giao Công Nghệ, Giáo Dục Việt Nam,
- Bang Giao Hoa Kỳ - Việt Nam ...
Ông cũng là một trong những người tham gia việc biên soạn bộ Bách Khoa Tự Điển Encyclopedia of the Vietnam War, A Political, Social, And Military History, do nhà xuất bản ABC - CLIO, Inc phát hành năm 1998
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét