4-12-2012
Tuy là bạn tâm giao với người viết từ lâu, ông Quách Tòng Đức
luôn luôn tỏ ra dè dặt và thận trọng khi nhắc đến những năm dài làm Đổng lý Văn
phòng cho Tổng thống Ngô Đình Diệm, vị lãnh tụ khai sáng nền Đệ nhứt Cọng hoà
Việt Nam.
Sau chính biến 1.11.1963, ông Đức trở lại ngành Tư pháp và được thăng
chức Chủ tịch Tham Chính Viện 1969. Tháng 4.1975, Sàigòn thất thủ, ông và gia
đình xin tị nạn chánh trị tại Paris.
Chánh phủ Pháp tuyển dụng ông vào Phòng Tố
tụng Tổng quát của thị xã Paris, thời Thị trưởng Jacques Chirac. Ông về hưu đầu
năm 1984. Nay 89 tuổi, trí tuệ còn minh mẩn tuy sức khoẻ không tốt như trước. Gần
đây, trong những lần gặp nhau lại ở Pháp cũng như qua nhiều cuộc điện đàm có
ghi âm, ông Đức đã chịu thố lộ với người viết nhiều điều liên hệ đến giai
đọan chín năm phục vụ vị nguyên thủ quốc gia bị sát hại năm 1963.
Ông Quách Tòng Đức (QTĐ) sanh
tại An xuyên năm 1917, thuộc một gia đình trung lưu, đậu cử nhân và Cao học Luật
Đông Dương năm 1941, Đại học Hànội, sau khi lấy bằng tú tài tại trường Pétrus
Ký, Sàigòn. Ông thuộc toán cử nhân đầu tiên gồm có Nguyễn Thành Cung và Lê Văn
Mỹ thi đậu năm 1942 vào ngạch huyện, phủ tại Miền Nam VN mà cấp bậc cao nhứt là
Đốc phủ sứ thượng hạng ngoại hạng tương đương với chức Tổng Đốc đứng đầu tỉnh ở
ngoài Trung và Bắc.
Khi vua Bảo Đại chỉ định Trần Văn Hữu lập Chánh phủ, Thủ hiến
Nam Việt Thái Lập Thành (xuất thân là một Đốc phủ sứ như các ông Nguyễn Ngọc
Thơ, Lê Tấn Nẩm, Dương Tấn Tài, Lê Quang Hộ ...) bổ nhiệm ông QTĐ năm
1951 làm Chánh Văn phòng và thiếu tá Dương Văn Minh, Chánh Võ phòng. Năm
1953, thủ hiến Thành và Thiếu tướng Chanson bị nhóm Cao Đài kháng chiến của
Trình Minh Thế ám sát tại Sadec trong một cuộc kinh lý.
49 ngày sau Điện Biên Phủ thất
thủ, tức là 26.6.1954, Bảo Đại giao cho cựu Thượng thơ Ngô Đình Diệm lập chánh
phủ, thay thế hoàng thân Bửu Lộc. Trước đây, ông Diệm đã ba lần từ chối lời mời
của Bảo Đại: năm 1937, 1945 và 1948. Ông giao thiệp thân tình với nhà cách mạng
Phan Bội Châu lúc sanh tiền, có ghé Nhựt năm 1950 để hội kiến với Kỳ ngoại hầu
Cường Để và, theo một số sử liệu, từng lãnh đạo Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội
trong nước. Có lúc ông bị Việt Minh bắt giữ và - khác với Bảo Đại - đã
cương quyết bác bỏ lời mời của Hồ Chí Minh làm Cố vấn cho Chánh phủ do Hồ dựng
ra.
Hiệp định Genève, ký ngày 20.7.1954, chia đôi VN nơi vĩ tuyến
17. Trong đám đông quần chúng đón tiếp nồng nhiệt Thủ tướng Diệm tại phi
trường Tân Sơn Nhứt có ông Nguyễn Ngọc Thơ, nguyên bí thơ của Toàn quyền
Decoux, cùng đi với ông QTĐ. Thủ tướng Diệm - kiêm luôn Quốc phòng và Nội Vụ -
mời ông Thơ tham gia Nội các với tư cách Bộ trưởng Nội vụ. Ông Thơ chọn ông Đức
làm Đổng lý Văn phòng năm 1954.
Ngày 23.10.1955, một cuộc trưng cầu dân ý truất
phế Bảo Đại. Ngày 26.10.1956, từ Thủ tướng trở thành Tổng thống, ông Diệm
thiết lập nền Đệ nhứt Cọng hoà VN. Quân đội tổ chức một cuộc diễn binh huy
hoàng tại đại lộ Trần Hưng Đạo Sàigòn dưới quyền điều khiển của Dương Văn Minh,
vừa vinh thăng Thiếu tướng sau khi tảo thanh xong Bình Xuyên taị Rừng
Sát. Ông QTĐ thay thế Đổng lý Tôn Thất Trạch cuối năm 1954 và
giữ chức vụ này cho đến ngày Quân đội đảo chánh năm 1963.
Nhận xét về mối liên hệ của TT Diệm với gia đình.
Theo ông QTĐ, năm 1954 chánh phủ Pháp trả trước dinh Gia
Long ở đường Gia Long, và sau khi quân đội Pháp rút khỏi Việt Nam, nhà cầm quyền
Đệ nhứt cọng hoà mới thu hồi Dinh Toàn quyền Norodom, đổi tên thành Dinh Độc lập,
trên đại lộ Thống nhứt. Dinh này đươc kiến trúc sư Ngô Viết Thụ, khôi nguyên La
Mã, xây cất lại hoàn toàn sau ngày 27.2.1962 vì Dinh bị hai phi công Phạm Phú
Quốc và Nguyễn Văn Cử dội bom hư hại khá nặng.
Dinh Độc lập chia làm hai tầng: tầng dưới có hai phòng khánh
tiết tráng lệ và các Văn phòng của Cố vấn Ngô Đình Nhu, Bộ trưởng Phủ Tổng thống,
Đổng lý Văn phòng, Tổng thơ ký Phủ Tổng thống và nhân viên. Tầng trên chia làm
ba phần: phía trái dành làm Văn phòng và phòng ngủ của Tổng thống, phòng sĩ
quan tuỳ viên; ở giữa có hai phòng tiếp tân khang trang; phiá phải là nơi cư ngụ
của gia đình ông bà Nhu gồm có hai trai, hai gái. Tổng thống Diệm thích làm việc
trong phòng ngủ, trang trí sơ sài vôùi một cái giường nhỏ bằng gổ, một
bàn tròn và ba ghế da. Nơi đây, Tổng thống thường dùng cơm và tiếp các Bộ trưởng
và tướng lãnh.
Gia đình Tổng thống rất trọng Nho giáo. Hằng năm vào Tết
Nguyên đán, luôn luôn tụ họp đông đủ ở Phủ Cam, Huế, để chúc thọ bà cụ Ngô Đình
Khả giao cho người con áp út Ngô Đình Cẩn săn sóc ngày đêm. Ông bà Ngô Đình Khả
có chín người con: 6 trai, 3 gái. Trưởng nam, Tổng đốc Ngô Đình Khôi và
con trai là Ngô Đình Huân bị CS giết năm 1945. Ba người con gái là bà Ngô Đình
Thị Giao tức bà Thưà Tùng, bà Ngô Đình Thị Hiệp tức bà Cả Ấm, thân mẫu của Đức
Hồng y Nguyễn Văn Thuận và bà Ngô Đình Thị Hoàng tức bà Cả Lễ, mẹ vợ của Nghị
sĩ Trần Trung Dung. TT Diệm là người con trai thứ ba trong gia đình nhà Ngô,
sanh năm 1901 taị Huế, được vua Bảo Đại bổ nhiệm năm 1933 Thượng thơ đầu
Triều lúc 33 tuổi nhưng ông Diệm sớm rủ áo từ quan vì thực dân Pháp không
chấp nhận chương trình cải tổ rộng lớn của ông.
Sau ngày ông Khôi qua đơì, Tổng giám mục Ngô Đình Thục, trở
nên người anh cả “quyền huynh thế phụ”. Đức cha được kính nể và có nhiều ảnh hưởng
đối với TT Diệm. Ông QTĐ cho biết, lúc còn ở Vĩnh Long, Giám mục Thục vài tuần
có về Saigon ngụ trong Dinh. Ông Ngô Đình Luyện, con út trong gia đình, đại sứ ở
Luân Đôn, năm khi mười họa mới về nước nghỉ phép hay để dự các phiên họp của Hội
đồng Tối cao Tiền tệ mà ông là một thành viên. hay để dự các phiên họp của Hội
đồng Tối cao Tiền tệ mà ông là một thành viên. Ông Đức không nhớ có lần nào gặp
ông Cẩn trong Dinh Độc Lập.
Văn phòng Đổng lý không làm việc thẳng với Cố vấn Nhu. Ông
Nhu có nhân viên riêng trong Sở Nghiên cứu Chánh trị Phủ Tổng thống mà người
giám đốc đầu tiên là đốc phủ sứ Vũ Tiến Huân, Tham lý Nội An Bộ Nội
vụ, về sau thay thế bởi bác sĩ Trần Kim Tuyến. Văn phòng của Sở Nghiên cứu xử dụng
một ngôi nhà riêng trong hàng rào Dinh Độc lập. Vài tháng trước vụ binh biến
1.11.1963, Tuyến bị thất sủng, trung tá Phạm Thư Đường thay thế. Tuyến
được bổ nhiệm làm Tổng lãnh sự (hụt) tại Le Caire, trở lại VN và liên hệ đến một
nhóm âm mưu đảo chánh. Đảo chánh thành công, bs Tuyến bị Hội đồng Cách mạng đày
ra Côn Đảo (tỉnh trưởng là trung tá Tăng Tư) trên một năm cùng với lối 200 nhân
vật chế độ củ gồm có Ngô Trọng Hiếu, Cao Xuân Vỹ, đại tá Nguyễn Văn Y, Hà Như
Chi, Dương Văn Hiếu….
Ông QTĐ không thể xác nhận tin nói rằng trước ngày 1.11.1963, ông Nhu đã giao
cho người em vợ là Trần Văn Khiêm điều khiển cơ quan mật vụ. Khiêm bị nhiều tai
tiếng, từng cọng tác với Văn phòng của luật sư Trương Đình Dzu, ứng cử viên Tổng
thống thời Thiệu-Kỳ. Vụ Khiêm giết cha mẹ là ông bà cựu đại sứ Trần Văn Chương
taị Hoa kỳ sau 1975 làm dư luận xôn xao. Toà án Mỹ tha Khiêm với lý do Khiêm bị
bịnh tâm thần và trục xuất Khiêm khỏi Hoa kỳ. Khiêm hiện sống bình thường ở
Pháp. Có sự điều đình chánh trị gì bên trong vụ án này?
Khi được hỏi cách cư xử của TT Diệm với bà Nhu (nhủ danh Trần
Lệ Xuân), ông Đức cho biết “ông cụ có vẻ nể và ủng hộ bà Nhu” trong vụ tổ chức
Phong trào Phụ nữ Liên đới và vận động Quốc hội ban hành Bộ Luật Gia đình cấm
ly dị. Tổng thống cho rằng bà Nhu hành động như vậy là giúp cải tổ xã hội. Tuy
nhiên, những kẻ xấu miệng lại cho rằng Bộ Luật Gia đình nhằm mục tiêu riêng:
ngăn luật sư Nguyễn Hữu Châu ly dị với vợ là Trần Lệ Chi, chị của bà Nhu.
Ngoài chức vụ dân biểu Quốc hội, bà Nhu còn là chủ tịch Phong trào Phụ nữ Liên
đới. Khi tiếp quốc khách, bà Nhu đóng vai trò Đệ nhứt Phu nhân vì Tổng thống độc
thân. Tuy bất bình về những lời tuyên bố châm dầu vào lửa của người em dâu
trong vụ Thích Quảng Đức tự thiêu ngày 11.6.1963 (đặc biệt với câu "monks'
barbecue"), ông Diệm không công khai phủ nhận vì ngại đụng chạm đến
ông Nhu vào một giai đoạn rối như tơ vò. Chính ông Nhu, với tánh hay nhường nhịn
cho yên nhà yên cửa, cũng không kiểm soát nổi lối phát ngôn của vợ. Bà Nhu hiện
có một cuộc sống kín đáo, đơn sơ, nặng về tôn giáo, qua la#i giữa Paris và
Rome, tất cả con cái đều thành tài.
Trưởng nữ Ngô Đình Lệ Thủy chết trong một tai nạn lưu thông sau 1975. Sự
bất hạnh không ngớt đeo đuổi gia đình nhà Ngô. Thời gian gần đây, bà Nhu
thay bà Luyện để tổ chức hằng năm tại Paris một lễ cầu hồn cho TT Diệm và
ông Nhu. Trong số ít người còn lui tới với bà Nhu, có vợ chồng cựu bộ trưởng
Lao động Hùynh Hữu Nghiã. Ông Nghĩa qua đời năm vừa rồi.
Về tin đồn Đức cha Thục làm kinh tài (khai thác lâm sản,
mua thương xá Tax, làm chủ nhà sách Albert Portail..v..v..), ông Đức
cho rằng TT Diệm tin TGM Thục không làm điều gì quấy, ngài phải kiếm tiền
nuôi sống trường Đại học Đà Lạt do Ngài thành lập. Trải qua một cuộc đời sóng
gió và gặp nhiều hiểu lầm với Toà thánh Vatican sau 1975, TGM Ngô Đình Thục
được Giáo hoàng phục hồi chức tước, về hưu ở Hoa kỳ và đã ra đi bình yên
tại một Viện dưỡng lão công giáo thuộc tiểu bang Missouri.
Ông QTĐ xác nhận ông Ngô Đình Nhu chẳng những là lý thuyết
gia mà còn là bộ óc của Đệ nhứt Cọng hoà, “l’homme indispensable, nhân vật
cần thiết”. Ông xuất thân từ ÉØcole des Chartes Paris, trầm tỉnh, ít nóí, lạnh
nhạt bên ngoài, thích nghiên cứu lịch sử, có nhiều sách hơn đồng chí. Trong lối
ba năm chót của chế độ, dù giữ quyền quyết định cuối cùng trong mọi việc, TT Diệm
thường phê chuyển các hồ sơ chánh trị quan trọng qua cho ông Nhu để lấy ý kiến,
không kể những cuộc gặp mặt thảo luận riêng hằng ngày. Ông Nhu làm việc âm thầm,
cần mẫn, hút thuốc liên hồi (mỗi lần nửa điếu, do sự can ngăn của bà Nhu) trong
một văn phòng không rộng, đầy ngập sách vở, ánh sáng mờ mờ, ở tầng dưới Dinh Độc
lập, có gắn máy lạnh và interphone với bên ngoài.
Ông thường phê vào các công văn với một cây bút chì mỡ màu xanh lá cây. Ông là
cha đẻ của Đảng Cần Lao, dựa vào thuyết Nhân Vị, Personnalisme, đúc kết
hai xu hướng của triết gia công giáo Emmanuel Mounier (1905-1950) và Jacques
Maritain (1882-1973). Ông phát động và thực hiện kế hoạch quốc phòng Ấp
chiến lược từng gây khiếp đảm cho CS Bắc Việt. Quốc sách này được thành lập bởi
Nghị định số 11-TTP của Tổng thống và ông Nhu là Chủ tịch Uy ban Liên bộ đặc
trách Ấp chiến lược.
Ông Nhu cũng cho thành lập Phong trào Thanh niên và
Thanh nữ Cọng hoà giao cho Cao Xuân Vỹ phụ trách. Ông đẩy mạnh tổ chức Lao động
ở Việt nam và nâng đở Trần Quốc Bửu. Đại tá CIA Lansdale (người đã ủng
hộ Magsaysay trở thành Tổng thống Phi Luật Tân năm 1952) giúp ông móc nối với Lực
lương kháng chiến Cao Đài để đưa tướng Trình Minh Thế về với Quốc gia.
Ngoài chức Tổng Bí thơ Đảng Cần Lao (tổ chức theo mô hình đảng Cộng sản, với một
Quân ủy trong Quân đội), (tổ chức theo mô hình đảng Cộng sản, với một Quân ủy
trong Quân đội), có một lúc ông Nhu là dân biểu Quốc hội. Ông không bao giờ
tháp tùng Tổng thống trong các cuộc kinh lý. Săn bắn là thú tiêu khiển yêu chuộng
của ông và đồng thời là cơ hội tìm nơi yên tịnh để suy nghĩ.
Ông đại sứ Luyện, gốc kỹ sư, tánh tình cởi mở, thích giao du
với bạn bè mỗi khi về VN nhưng không có nhiều ảnh hưởng vì không xen vào vấn đề
nội trị. Ông là bạn học của cựu hoàng Bảo Đại, sống taị Luân đôn và đại diện
VNCH ở nhiều xứ Âu châu và Phi châu. Sau khi vợ trước qua đời, ông Luyện tục
huyền với em vợ và có rất đông con. Bà Luyện sống ở ngoại quốc nhiều hơn và ít
khi xuất hiện. Sau 1963, ông Luyện daỵ toán taị một trường tư thục Paris,
sau đó sang Phi châu làm việc một thời gian, tình trạng khá chật vật khi về hưu.
Ông có qua Hoa Kỳ vài lần để thăm Đức TGM Thục, không có liên lạc với bà Nhu,
và ông đã quá vãng ở Pháp năm 1982.
Cho đến cuối năm 1961, vai trò của ông Ngô Đình Cẩn, Cố vấn
lãnh đạo Miền Trung, trái lại, rất hệ trọng về mặt an ninh và đoàn thể. Ông Cẩn
không ăn học cao nhưng nắm vững tình hình địa phương, có óc tổ chức, luôn luôn
trang phục theo lối Việt, áo dài, khăn đóng, ăn trầu, (từ đó biệt danh “Ông Cố
Trầu”), độc thân, thích hút thuốc Cẩm Lệ, đan rổ, làm vườn, nuôi thú, nuôi
chim.
Ảnh hưởng của ông lan vào Miền Nam với những điệp vụ mang danh nghĩa chiêu hồi
của Đoàn Công tác Đặc biệt do Dương Văn Hiếu quán xuyến, sự hiện diện của Nguyễn
Văn Hay trong cương vị phó TGĐ taị Tổng nha Cảnh sát Công An Sàigòn và các hoạt
động của cánh Cần Lao do nha sĩ thân tín Phan Ngọc Các điều khiển. Sau
1.11.1963, viên lãnh sự Mỹ Helble taị Huế không cho Cẩn và thân mẫu được
tị nạn chánh trị taị Toà lãnh sự trong khi trước đó, cơ quan USAID Sàigòn chứa
chấp Trí Quang nhiều ngày.
Lúc vừa bị bắt, ông Cẩn có chỉ cho tướng Đỗ Cao Trí tịch thu tại nhà ông ở Phú
Cam, dưới gầm giường, "một bao bố và một va-li đựng quý kim" (đọc hồi
ký Dòng họ Ngô Đình của Nguyễn Văn Minh, bí thơ của N Đ Cẩn, trang 307).
Ông Cẩn bị Hội đồng Quân nhân Cách mạng, thời Nguyễn Khánh, xử tử vào lúc 6 giờ
30 chiều ngày 9.5.1964 taị sân sau khám Chí hoà, Sàigòn. Luật sư bào chữa là Võ
Văn Quan.
Cố vấn Cẩn tỏ ra bình tỉnh tại pháp trường, tuyên bố tha thứ cho các người
tuyên án ông và xin đừng bị bịt mắt nhưng không được chấp nhận. Nếu gia
đình thỏa thuận lấy của đổi mạng, ông Cẩn có thể đã thoát chết. Vụ tống tiền
này đã được cố nghị sĩ Trần Trung Dung và cố trung tướng Lâm Văn Phát xác nhận
với người viết sau 1975.
Được hỏi về tin đồn có sự cạnh tranh ảnh hưởng chánh trị giữa
Nhu và Cẩn, ông QTĐ nói chỉ nghe nói phong thanh. Vào tháng 10.1963, ông Cẩn nhận
được lệnh của TT Diệm ngưng mọi hoạt động về đoàn thể và đóng cửa Văn phòng Cố
vấn chỉ đạo ở ngoài Trung gồm có Hồ Đắc Trọng và đại úy Nguyễn Văn Minh. Hình
như sự hiện diện của TGM Ngô Đình Thục tại Huế đã bó tay ông Cẩn phần nào. Ông
Cẩn không dám phê bình chị dâu tuy không ưa bà Nhu. Trong phạm vi cá nhân, ông
Cẩn giữ liên lạc tốt với Thượng tọa Trí Quang nhưng điều này không giúp giải
quyết cuộc khủng hoảng Phật giáo. Hoa kỳ và Cộng sản đã nhúng tay quá sâu.
Người viết có yêu cầu ông QTĐ cho biết trong gia đình họ
Ngô, ai là người gây tiếng tâm bất lợi cho chế độ. Suy nghĩ một
phút, ông Đức đáp: TGM Thục và bà Nhu. Đặc biệt trong giai đọan Phật
giáo. Đức cha ảnh hưởng quá nặng ngoài lãnh vực tôn giáo.
Bà Nhu xen quá sâu vào chính trị, điều ít thấy trong giới phụ nữ VN. Ngó
từ bên ngoài, năm anh em Ngô Đình rất khắn khít, mỗi người giúp tay tích cực
xây dựng chế độ trong một lãnh vực. Sự đoàn kết ấy được diễn tả trong huy hiệu
Đệ nhứt cọng hoà: năm cành trúc kết thành một bó, dưới khẩu hiệu “Tiết trực Tâm
Hư.” Tuy nhiên, mỗi nhân vật có cá tánh riêng, nhận định không luôn luôn
nhất thống, đôi khi còn mâu thuấn. Đó là hậu quả khó thể tránh trong một chế độ
dựa vào gia tộc để lãnh đạo. Phe chống đối cũng như Hoa kỳ và Cộng sản đều
khai thác triệt để và dễ dàng nhược điểm này.
Dư luận cho rằng trong năm chót của chế độ, trước cuộc binh
biến 1.11.1963, ông Nhu – trên thực tế – là một “Tổng thống không ngôi” vì có
nhiều quyền lực, làm lu mờ vai trò của ông Diệm nhưng quyền bính hiến định vẫn ở
trong tay ông Diệm bị tấn công tứ phiá, bên trong lẫn ngoài nước. Không có một
văn kiện chánh thức nào bổ nhiệm ông Nhu lẫn ông Cẩn làm Cố vấn Chánh phủ.
Chính các đoàn thể chánh trị ở Miền Trung mời ông Cẩn làm “Cố vấn Chỉ
đạo” và dành cho ông danh xưng nầy. Có lúc dư luận cảm thấy ông Diệm cần
ông Nhu hơn là ông Nhu cần ông Diệm. TT Diệm không thể tách rời khỏi ông Nhu
đóng vai trò "l'âme damnée, linh hồn đày đọa". Đó là
đầu mối thảm trạng xảy ra cho hai người vào giờ phút chót.
TT Diệm tưởng lầm có thể dùng uy tín cá nhân để bảo vệ sanh
mạng của bào đệ. TT Diệm cũng tưởng lầm khối tướng lãnh chấp nhận điều đình với
ông. Phần đông tướng lãnh kính nể TT Diệm nhưng tất cả ngán sợ ông Nhu vì ông
Nhu lắm mưu mô, nhiều bản lãnh. Sự ngán sợ đã trấn áp lòng nể trọng và dẫn
đến quyết định hy sinh vị nguyên thủ quốc gia. 3 giờ trưa ngày 1 tháng 11, lúc
tiếng súng đang nổ lớn, TT Diệm điện thọai cho đại sứ Lodge: Một cuộc điện
đàm ngắn ngủi, đầy phẩn nộ trong khuôn khổ ngoại giao.
Khi hay hai ông Diệm, Nhu thoát khỏi Dinh Gia Long đêm 1.11.1963, nhóm phản
lọan “run đến phát rét “ và một tướng cầm đầu định “trở cờ”, theo sự
tiết lộ của Tổng thống Thiệu trước khi qua đời với người viết. Conein thúc phe
phản lọan phải bắt sống cho kỳ được hai ông Diệm, Nhu. Conein nói suồng sã: “On
ne fait pas l’omelette sans casser les oeufs, Không thể rán trứng mà không
đập bể trứng ! ”, theo Trần Văn Đôn kể lại trong Hồi ký.
TT Diệm không chiụ ra lệnh cho một số đơn vị võ trang trung
thành phản công quân đảo chánh vì muốn tránh cảnh nồi da xáo thịt, làm suy giảm
tiềm năng kháng cộng. 4 giờ sáng ngày 2.11.1963, hai tư lệnh Quân khu
thân tín ở Vùng I và II là tướng Đổ Cao Trí và Nguyễn Khánh tuyên bố ủng hộ Hội
đồng Cách Mạng. Hy vọng cuối cùng tan biến. Hai giờ sau, Tổng thống cho
phép đại úy Đỗ Thọ, sĩ quan tùy viên, điện thoại cho chú y là đại tá Đỗ Mậu yêu
cầu cho xe đến đón tại Nhà thờ Cha Tam Chợlớn.
Lúc 6 giờ và 6 giơ 45 sáng ngày 2.11.63, TT Diệm đích thân điện thoại
cho các tướng Minh, Đôn và Khiêm để tìm giải pháp cho cuộc khủng hoảng. Dương
Văn Minh chỉ định Mai Hữu Xuân, Nguyễn Văn Quang, Dương Ngọc Lắm, Dương Hiếu
Nghĩa và Nguyễn Văn Nhung (tên vệ sĩ đã từng thủ tiêu xác của Ba Cụt)
đi đón, với chỉ thị riêng thanh toán hai ông Diệm, Nhu, trước khi về
tới Bộ Tổng tham mưu. Thái thú Cabot Lodge nhắm mắt trước vụ mưu sát bỉ ổi
này mà ông có dư quyền chận lại nếu muốn. Đây là một vết nhơ không bao giờ rửa
sạch trong lịch sử đại cường Hoa kỳ. Tổng thống Kennedy (lãnh tụ đảng Dân chủ)
quá yếu đuối, để cho thuộc hạ lật đổ ông Diệm một cách vô trách nhiệm, với sự a
tùng của viên đại sứ đồ tể Cabot Lodge (thuộc đảng Cọng hoà).
Mai Hữu Xuân (đồ đệ của tên Cò khát máu Pháp Bazin) sống cô đơn, qua đời
tại vùng Bắc Californie vì bịnh tim, nhiều hôm sau lối xóm mới khám phá được,
báo cho cảnh sát. Đại tá Quang (gốc Đaị Việt và cấp trên của Dương Văn Minh
trong Quân đội Pháp) thăng thiếu tướng, một thời gian ngắn thì chết vì bịnh lao phổi.
Ông Nhu có thiện cảm với Pháp hơn với Mỹ, yếu tố văn hoá/
giáo dục ảnh hưởng nặng. Ông Diệm lại e dè với Pháp (qua kinh nghiệm thất
vọng thời làm quan dưới triều thực dân) nhưng rốt cuộc, oái oăm thay, ông trở
thành nạn nhân của Mỹ mà ông nghĩ là văn minh và nhân đạo hơn!
Con người của chí sĩ Ngô Đình Diệm.
Nhiều sách vở và tài liệu đã nóí về cuộc đời chánh trị và
riêng tư của TT Ngô Đình Diệm. một lãnh tụ cương trực, khí khái, chống cộng cố
hữu (anti-communiste invétéré) cũng như bướng bỉnh với đế quốc, bất
luận Pháp, Tàu hay Mỹ. Theo ông QTĐ, TT Diệm có cái uy nghiêm riêng phát xuất từ
một gương mặt phúc hậu, một tác phong cương nghị, một giọng Huế ấm áp, một lối
nhìn thẳng vào người đối thoại. Một nốt ruồi đen thấy rỏ trên gò má dưới mắt
trái của Tổng thống được các nhà tử vi xem như báo hiệu một số
mạng nhiều buồn phiền và tang tóc. Ông không nặng lời hay gắt gỏng với cấp thừa hành, khi không vừa ý.
Phong cách của TT Diệm làm cho những người tiếp xúc với ông
phải kính nể. Sau cái bề ngoài trầm tỉnh, TT Diệm là một con người cuồng
nhiệt, một hỏa diệm sơn, kiên trì trong mục đích, không nhân nhượng trên những
đức tin căn bản. Trong chín năm làm việc tại Dinh, ông Đức cũng có dịp chứng kiến
một ít trường hợp – vì lý do đặc biệt – Tổng thống thịnh nộ, quát tháo, đập bàn
.. Những “trận bão” này, tuy nhiên, qua mau, Tổng thống tự kềm chế cấp thời vì
bản tánh của ông bộc trực, không cố chấp, không thâm độc như Hồ Chí Minh.
Ông có thể độc thoại hàng giờ khi nói đến những đề tài mà ông nghiền ngẫm
như chủ thuyết cộng sản, ấp chiến lược, khu trù mật, dinh điền, cải tổ
hành chánh, hay văn hoá Khổng Mạnh. Mái tóc đen nhánh, dáng người thấp,
chân đi hai hàng lạch bạch nhưng mau lẹ. Rất sùng đạo, xem lễ mỗi buổi sáng tại
hoặc một phòng riêng trong Dinh, hoặc nhà nguyện Dòng Chúa Cứu thế. Trang
phục màu trắng, cà vạt đen quanh năm, không thay đổi. Làm việc bất chấp
giờ giấc, với nhịp độ làm các người thân cận mệt nhoài. Khi có vấn đề khẩn, ông
cho mời nhân viên hữu trách vào Dinh để đàm đạo thâu đêm. Bằng không, ông đọc
phúc trình, hồ sơ đến khuya, uống trà, hút thuốc nhưng không bao giờ hút hết
phân nửa điếu thuốc.
TT Diệm kinh lý không biết mệt, có khi mỗi tuần đi suốt hai
ba ngày, đến các tiền đồn hẻo lánh, làng Thượng xa xôi, xử dụng mọi phương tiện
chuyên chở: máy bay, ghe, tàu, xe jeep, trực thăng….. Ông không hùng hồn trước
đám đông nhưng rất thoải mái và thân mật ở giữa những nhóm nhỏ, không quan
cách, không mị dân.
Khi nhóm Hội đồng Nội các, Tổng thống Diệm thường ra ngoài
chương trình ấn định, nếu tình cờ gặp một đề tài gây chú ý. Ông nói say mê,
không đầu không đuôi, lắm khi không kết luận. Với tư cách thơ ký phiên họp, ông
QTĐ ghi mệt tay. Lúc bế mạc, các bộ trưởng thường phải nhờ ông Đức tóm tắt vì
suốt chín năm trời làm việc bên cạnh Tổng thống, ông Đức đã quen và rút kinh
nghiệm, tuy đôi lúc cũng đoán lầm.
TT Diệm sống rất nặng về lý tưởng. Con người Khổng giáo
nghiêm khắc và Công giáo khổ hạnh nơi ông có những nhận xét lắm khi không sát
thực tế. Ông thường nhắc rằng người cán bộ trung thành luôn luôn hy sinh vì đại
cuộc mà không cần đến cơm áo, danh vọng và chức tước, một lời khen của lãnh tụ
đủ gây mãn nguyện. Khổ nổi, không phải cán bộ nào cũng thánh thiện như thế. Cuộc
nổi loạn năm 1963 là một sự cải chính xót xa. Sánh với Hồ Chí Minh, ông Diêm là
một lãnh tụ đức độ thiếu mưu lược, ghét xảo quyệt.
Thú tiêu khiển của TT Diệm không nhiều vì thiếu giờ rảnh.
Ông thích cỡi ngựa ở Đàlạt hay trong vòng rào của Dinh Độc Lập trong những năm
yên ổn. Ông sưu tập máy ảnh, thích chụp hình và rất vui khi nhận được một máy lọai
mới. Chủ tiệm chụp hình Hà Di thường được gọi vào Dinh về vấn đề chuyên môn. Tổng
Thống ăn uống thanh đạm, thường bữa dùng tại ngay phòng ngủ, do ông già An và đại
uý Nguyễn Bằng phục dịch, thực đơn ít khi thay đổi gồm có cơm vắt, muối
mè, cá kho và rau. Tổng thống ít khi đau, lâu lâu cảm cúm, có bác sĩ Bùi Kiện
Tín chăm sóc.
Phòng nội dịch không đông nhân viên, do ông Tôn Thất Thiết phụ trách. Vấn đề tiền
bạc riêng của Tổng thống thì giao trọn cho Chánh văn phòng đặc biệt Võ Văn Hải,
ông Diệm không có nhu cầu lớn. Ông Hải, học trò cũ của GM Ngô Đình Thục,
tốt nghiệp Trường Khoa học Chính trị Paris, cử nhân Hán học, rể của cựu Thượng
thơ Nguyễn Khoa Toàn, theo sát Tổng thống Diệm từ lúc còn bôn ba ở hải
ngoại và được ông Diệm thương như con. Ông Hải chính là người được TT Diệm chỉ
định ngày 11.11.1960 ra trước cổng Dinh Độc Lập tiếp xúc với các sĩ quan phản lọan
Nguyễn Chánh Thi - Vương Văn Đông để tìm hiểu yêu sách của họ. Hải chống ông bà
Nhu và bác sĩ Tuyến, giám đốc Sở Mật vụ và cũng không thích ông Cẩn.
Ông Đức còn thêm: Vài hôm sau 1.11.1963, ông có chứng kiến vụ
Hải lập biên bản trao cho đại úy Đặng Văn Hoa, chánh văn phòng của tướng Trần
Văn Đôn số tiền của TT Diệm giao cho Hải cất giữ. Ông Đức không biết số
tiền này được bao nhiêu và lọt vào túi của ai. Nôi hai trang cuối cùng của hồi
ký Việt Nam Nhân chứng, Trần Văn Đôn có ghi rỏ Hải đã trao hai số bạc mặt
2.390.000 đồng và 6.297 Mỹ kim, Dương Văn Minh lấy 6.000 đô và chia cho Trần
Thiện Khiêm 297 đô. Số bạc VN được phân phát cho Tôn Thất Đính, Lê Văn Kim,
Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Nguyễn Hữu Có, Nguyễn Văn Thiệu, Phạm Ngọc Thảo,
Trần ngọc Tám và Trần Thiện Khiêm, riêng Đôn có nhận 24.500 đồng.
Khi phe quân nhân lên cầm quyền, Võ Văn Hải có can đảm tổ chức
nhóm “Tinh thần Ngô Đình Diệm” và ra ứng cử dân biểu taị Sàigòn nhưng thất
cử. Năm 1974, không hiểu vì sao Hải lại xoay qua, cùng với Tôn Thất Thiện, ủng
hộ nhiệt tình tướng Dương Văn Minh là người ra lệnh hạ sát hai ông Diệm, Nhu. Hải
qua đời trong một trại giam Bắc Việt sau 1975, đem theo nhiều điều bí mật chưa
hề tiết lộ.
Về câu hỏi TT Diệm liên hệ ra sao với đảng Cần Lao, ông QTĐ
cho biết ông Diệm chỉ để ý theo dõi hoạt động của Phong Trào Cách Mạng Quốc gia
(tổ chức nồng cốt của chế độ từ lúc đầu) và Liên đoàn Công chức
Cách mạng, một tổ chức ngoại vi của Chánh phủ. Về chuyện thành lập và sinh hoạt
của đảng Cần Lao, TT Diệm giao hết cho hai ông Nhu và Cẩn. Trong các năm chót của
chế độ, kế hoạch ẤÙp chiến lược cũng do ông Nhu hoàn toàn phụ trách, Tổng thống
không lưu ý đến như đã từng lưu ý đến kế hoạch Dinh điền hay Khu Trù mật. Các
gương mặt nổi trong hoạt động Cần Lao gồm có các ông Huỳnh Văn Lang, Trần Kim
Tuyến, Lê Văn Đồng, Huỳnh Hữu Nghĩa, Lê Quang Tung, Đổ Mậu, Nguyễn Văn Châu, Đổ
Kế Mai, Nguyễn Trân ..v..v..
Bs Tuyến làm việc với ông Nhu, ít khi gặp Tổng thống, trừ trường hợp đặc
biệt. Quyết định đưa Cần Lao vào Quân đội – tức là chính trị hoá Quân đội
– làm yếu Quân đội vì phá vỡ hệ thống quân giai và làm nản lòng các sĩ quan
chuyên nghiệp. Quân đội chỉ biết có Tổ Quốc. Và phục vụ tổ quốc mà thôi.
Vụ công điện số 9159 cấm treo cờ Phật giáo và sự trở mặt
của các sĩ quan thân tín.
Trong quyển hồi ký “ Dòng họ Ngô Đình”, xuất bản
năm 2003 taị Californie, tác giả Nguyễn Văn Minh, nguyên bí thơ (1956-1963) của cố Ngô Đình Cẩn, ghi nơi trang 164-165: Lối 10 hôm sau vụ nổ lựu
đạn giết 7 em bé và một số Phật tử tại đài phát thanh Huế nhân ngày lễ Phật Đản
1963, Dương Văn Hiếu, trưởng đoàn Công tác đặc biệt Miền Trung, vào Dinh để
phúc trình với TT Diệm, ông Diệm nói với Hiếu như sau về vụ treo cờ Phật giáo:
“Sau đó tôi mới bảo Quách Tòng Đức gởi công văn nhắc các Tỉnh, chứ tôi có cấm
chi mô! Không hiểu taị răng hắn để tới ngày chót mới gởi công điện. Khi xảy
chuyện, tôi kêu vô hỏi, hắn xin thôi. Công chuyện đổ bể như ri rồi, xin thôi
thì ích chi?”. Nguyễn Văn Minh còn viết thêm ý kiến của Tôn Thất Đính: “Ông
Đức đã gởi đi một công điện mà không tham khảo ý kiến ông Cố vấn Ngô Đình
Nhu..Lẽ nào lại tự tiện đánh đi một công điện như vậy nếu không được tình báo Mỹ
tổ chức?”
Được hỏi nghĩ sao về những đoạn trích dẫn trên đây, ông QTĐ
tỏ vẻ rất ngạc nhiên. Ông xác quyết không bao giờ có nhận được lệnh của ông Diệm
thảo và gởi cho các Tỉnh trưởng công điện số 9159 đề ngày 6.5.1963 do ông Nguyễn
Văn Minh nêu ra, với nội dung “ chỉ thị cho các cơ quan phụng tự (nhà thờ,
chùa chiền..chỉ treo cờ Quốc gia mà thôi” (nguyên văn). Trước đó, việc
treo cờ được giải quyết bởi hai nghị định số 78 và 189 của Bộ Nội vụ (năm 1957
và 1958) và một sắc lệnh đầu năm 1962 của Phủ Tổng thống nhắc nhở quần chúng
tôn trọng Quốc kỳ.
Ông Đức kể lại: Tháng tư 1963, sau một cuộc thị sát vào mùa
lễ Phục Sinh, TT Diệm có chỉ thị cho ông Đức gởi thông tư lưu ý các giới chức Tỉnh
về thể thức treo quốc kỳ VN trong các ngày lễ đạo, không phân biệt tôn giáo
nào: treo trước cổng giáo đường, ở chính giữa và phiá trên, đúng kích thước,
còn các cờ đạo và cờ đoàn thể thì ở vị trí thấp hơn. Thông tư nhấn mạnh: phiá
trong các giáo đường, chùa chiền và những nơi thờ phượng, giáo kỳ được treo tự
do, không giới hạn. Lệnh của Tổng thống được phổ biến ngay ngày hôm sau.
Theo ông QTĐ, đầu tháng 5.1963, tại Huế, xảy ra một điều
đáng tiếc: Để lấy điểm trong lễ Ngân khánh 25 năm thụ phong giám mục của
Đức cha Ngô Đình Thục, nhà chức trách hành chánh địa phương đã cho treo cờ
Vatican "loạn xạ",bất chấp thông tư nói trên. Một tuần sau - ngày
8.5.1983 - vào lễ Phật Đản, các Phật tử cũng tự tiện treo cờ Phật
giáo như thế. Hôm sau, Tỉnh trưởng Thừa Thiên trở lại thi hành thể thức treo cờ
trong thông tư của Phủ Tổng thống nên gây sự phẩn nộ của Phật tử vì họ cho rằng
đây là một biện pháp bất công, kỳ thị. Tại Miền Nam, theo ông Đức, với 4.800 chùa
Phật, không có xảy ra vấn đề như ở Huế.
Ông Đức còn nhớ rất rành mạch rằng, sau thảm kịch tại Đài
Phát thanh Huế chiều ngày 8.5.1963, Tổng thống có đòi ông vào Văn phòng để đưa
cho ông xem, với một gương mặt “mệt nhọc, buồn rầu và chán nãn”, công
điện ngày 6.5.1963 nói trên và hỏi “một cách sơ sài” ai đã gởi đi chỉ thị ấy.
Ông Đức trả lời không biết vì trong sổ công văn gởi đi không có dấu vết của tài
liệu vưà kể.
Theo ông QTĐ, trong hoàn cảnh chánh trị dồn dập sôi động lúc đó (Thích Quảng
Đức tự thiêu, Quách Thị Trang bị baén chết tại chợ Bến Thành, lựu đạn nổ ở Huế,
tướng lãnh lập kiến nghị đòi cải tổ, việc kiểm soát chùa..v..v..), TT Diệm rối
trí, không còn màng đến việc ra lệnh điều tra. Ông có lẽ dư biết
việc giả tạo công điện 9159 là một đòn phép mới của phe chống
Chánh phủ ( Phật giáo Ấn quang? Tình báo Hoa kỳ? Đảng phái đối lập? hay Cộng sản?).
Vậy việc ông Đức xin từ chức là một điều thất thiệt. Nghi “tình báo Mỹ tổ
chức”ông Đức– như tướng Đính ởm ờ xuyên tạc – là một chuyện tưởng tượng rẻ tiền.
Trong hồi ký “Ngô Đình Diệm, Nổ lực hoà bình dang dở”, (nxb
Xuân Thu Californie 1989), nơi trang 189-190, Nguyễn Văn Châu, nguyên giám đốc
Nha Chiến tranh Tâm lý Quân đội VNCH, trở thành đối lập với Chánh phủ trước cuộc
binh biến 1.11.1963, có ghi lại: Sau 1975, một cựu đại uý Hoa kỳ tên James
Scott, liên hệ với CIA và từng làm cố vấn cho Tiểu đoàn 1/3 thuộc Sư đoàn 1 Bộ
binh, thú nhận trong một lá thơ đăng trên một tuần báo Mỹ rằng chính y đã gài một
trái bom nổ chậm chiều 8.5.1963 taị Huế. Sự kiện này cũng được Trần Kim
Tuyến, dưới bút hiệu Lương khải Minh, ghi lại trong hồi ký Làm thế nào giết
một Tổng thống? (tập 2, trang 366-370). Theo trung tướng Trần Thiện Khiêm
xác nhận với Marguerite Higgins, tác giả quyển sách Vietnam, Our nightmare, chương
VI, Nguyễn Khánh (nắm quyền sau cuộc chỉnh lý 30.1.1964) đã hy sinh thiếu tá Đặng
Sỹ, phó Tỉnh trưởng Nội an Thừa Thiên, để Thich Trí Quang trì hoãn chống đối.
Toà án Mặt trận xữ Sỹ khổ sai chung thân.
Tình trạng giữa TT Diệm và Mỹ căng thẳng kể từ muà hè 1962,
nổ lớn taị Huế với vụ Phật giáo 8.5.1963. Qua tháng 7, tin đồn đảo
chánh lan rộng. Ngày 21.8.1963, đại sứ Lodge trình ủy nhiệm thơ và bắt đầu
móc nối với tướng lãnh. Sau ngày Lực Lượng Đặc Biệt của đại tá Lê Quang
Tung lục soát chùa chiền, các tướng tin cẩn của TT Diệm đều đổi lòng, theo phe
phản loạn, trừ ông Cao Văn Viên trước sau như một. Ông Đức cảm động khi được biết
đại tứớng Viên (hiện ở Hoa Thịnh Đốn) đã xác nhận với người viết rằng sau ngày
30.1.1964 Nguyễn Khánh chỉnh lý ê-kíp Dương Văn Minh, Nguyễn văn Nhung, kẻ giết
hai ông Diệm-Nhu, - từ đại úy thăng thiếu tá - bị An ninh Quân đội bắt vào giao
cho Lực lượng Nhãy Dù của Tư lệnh Cao Văn Viên canh giữ. Nhung “đã tự treo cổ bằng
một sợi giây giày trong khám đường”, theo lời tướng Viên.
Được hỏi: trong các tướng thường vô ra Dinh Độc lập, ai là
người được sủng ái nhứt, ông QTĐ đáp không do dự: “ Tôn Thất Đính và Trần
Thiện Khiêm, mà Tổng thống xem như người nhà!” Điều này không ngăn
Đính và Khiêm đóng vai trò chính yếu trong cuộc đảo chánh 1.11.1963, hệ
trọng hơn cả Dương Văn Minh được chọn làm bình phong. Chính Trần Văn Đôn, với
tư cách người móc nối, đã tiết lộ trong hồi ký “Việt Nam Nhân Chứng”, rằng
Đôn có dò xét tâm ý của Đính và đến gặp Khiêm bốn lần, lần đầu vào tháng
9.1963, và Khiêm có cho Đôn biết “ông ta cũng có một kế hoạch riêng do Mỹ chủ
trương”. Đôn viết (nguyên văn): “Tôi khuyên ông ta không nên
bàn với Mỹ một việc quan trọng như vậy, nên bỏ kế hoạch ấy đi!”(trang 193).
Trong những biến cố quân sự liên tiếp làm hỗn loạn Miền Nam từ 1.11.1963
cho đến ngày Tổng thống Thiệu cầm quyền, tướng Trần Thiện Khiêm đứng sau màn giựt
giây chiếu theo lời xác nhận của một số nhân chứng hàng đầu khả tin. Tới nay,
ông Khiêm không đính chánh mà cũng không tiết lộ gì cả. Liệu tướng Khiêm sẽ ra
đi như tướng Thiệu, mang xuống tuyền đài những bí ẩn đau thương của Đệ nhị Cọng
hoà Miền Nam ?
Theo QTĐ, Dương Văn Minh không sâu sắc về chánh trị tuy thời
cuộc đưa lên ghế Quốc trưởng hai lần: sau 1.11.1963 (nhờ Mỹ giúp) và tháng tư
1975 (với sự đồng ý của Bắc Việt). Lần đầu, Minh tại chức ba tháng; lần sau, được
40 giờ, rồi đầu hàng địch vô điều kiện.
Với tư cách Bộ trưởng Nội vụ, tác giả
bài này được chỉ thị đích thân điều tra mật về trường hợp tẩu tán kho vàng Bảy
Viển chứa trong một thùng kẻm lớn, theo phúc trình của đại tá Nguyễn Văn Y, Tỉnh
trưởng Chợ lớn, phụ tá hành quân cho ông Minh trong cuộc tảo thanh Rừng
Sát. Người viết có mời tướng Minh đến giải thích.
Vì lý do chánh trị, hồ sơ tạm
xếp. Bộ Tư lệnh Hành Quân bị giải tán, tướng Minh được cử làm Cố vấn Quân sự Phủ
Tổng thống, một chức vụ tượng trưng. Từ đó, ông cảm thấy không yên tâm với “chiếc
gươm Damoclès treo trên đầu”, ông hận chế độ – đặc biệt cố vấn Nhu - vô
ơn sau khi ông đã chống Nguyễn Văn Hinh, ủng hộ Thủ tướng Diệm, giúp dẹp Bình
Xuyên và bắt nạp Ba Cụt.
Một lý do khác gây nghi ngờ đối với tướng Minh là cơ
quan tình báo quốc gia bắt đủ bằng chứng về mối liên hệ thầm lén giữa ông Minh
và người em CS là thiếu tá Dương Văn Nhựt. bí danh Mười Ty. Một người em khác của
tướng Minh là Trung tá QĐVNCH Dương Văn Sơn cũng đã chứa chấp vợ chồng Nhựt và
đóng vai trò liên lạc ở trong và ngoài xứ. Cục trưởng Trung ương Tình báo và Tổng
giám đốc Cảnh sát Công an Nguyễn Văn Y, hiện ở Virginia, đã xác nhận với người
viết có đích thân trình hồ sơ Dương Văn Minh cho TT Diệm xem. Tổng thống liền
ra lệnh hủy bỏ hồ sơ nầy "trước mắt ông" vì không muốn cho Hoa kỳ biết,
“xấu hổ.” (sic).
Hoa kỳ và Cabot Lodge đã khai thác mối thù riêng của tướng
Minh đối với cá nhân hai ông Diệm, Nhu để lật đổ Đệ nhứt Cọng hoà và thay ngựa
giữa giòng. Hoa kỳ cũng dư biết Minh có liên hệ với Bắc Việt nên áp lực
Trần Văn Hương trao quyền gắp lại cho D V Minh – trái với Hiến pháp - hầu
tạo lý do cho Mỹ chuồn sớm khỏi VN.
Nguyên đại tá Nguyễn Linh Chiêu, hiện ở
Huntington Beach, Californie, kể lại với tác giả bài này: Năm 1983, ông có gặp
tướng Minh tại Paris, hỏi vì sao thủ tướng Vũ Văn Mẫu cuối tháng 4.1975 lại
hấp tấp ra thông cáo buộc quân Mỹ phải rút trong vòng 24 giờ? Tướng Minh
đáp – trước mặt nhân chứng Trần Văn Đôn - đã làm “theo lời yêu cầu của đại sứ Mỹ
Graham Martin.”
Các sự kiện trên đây cho thấy tướng Dương Văn Minh chỉ là
một con rối trong tay Hoa kỳ, Pháp và Bắc Việt. Minh đã giúp Hoa kỳ tràn vào VN
bằng cách tuân lệnh đảo chánh ông Diệm. Mười hai năm sau, cũng chính Minh giúp
Quân đội Mỹ tháo chạy. Nguyên TT Trần Văn Hương đã thẳng thắn phát biểu:“Minh
không phải là con người thích hợp với cảnh dầu sôi lửa bỏng của Đất nước!”
Năm 1988, đại tướng Minh được Hoa kỳ cho phép rời Paris qua
Pasadena, Californie, sống với người con gái. Phải chăng đây là một cách trả
ơn? Ông Minh quá vãng ngày 6.8.2001, thọ 86 tuổi. Trước đó, Võ Văn Kiệt cũng có
đến thăm ông taị Pháp, theo Lý Quý Chung tiết lộ trong quyển “Hồi ký Không
Tên”vưà xuất bản taị Saigon. Với vài người thân tín, tướng Minh nói ông
không tiếc hối đã đóng vai trò của một Pétain Việt Nam!
Nguyễn Khánh là một sĩ quan thân tín có công “cứu Chúa” trong
vụ binh biến 11.11.1960 khi giữ chức Tham mưu trưởng Bộ Tổng tham mưu. Ông nuôi
cao vọng thay thế Tổng tham mưu trưởng Lê Văn Tỵ. Sau khi thăng Thiếu tướng tạm
thời taị mặt trận, ông được đưa lên Cao nguyên hẻo lánh để trấn Quân khu 2 và
Vùng 2 chiến thuật. Ông Khánh sanh bất mãn, vì thế tuyên bố trên đài phát thanh
lúc bốn giờ sáng ngày 2.11.1963 ủng hộ phe đảo chánh. Theo tướng Khánh kể lại với
người viết: đêm 1.11.1963, ông Diệm và ông Nhu có điện thoại từ Chợ Lớn
lên Pleiku cố thuyết phục ông Khánh cầm quân về Sàigòn giải cứu nhưng ông Khánh
trả lời “Quá trể và ở quá xa.”.
Câu hỏi đặt ra: Nếu tướng Khánh nhận về “cứu giá”, nếu TT Diệm trì
hưởn xuất hiện sáng 2.11.1963 và nếu sự cứu giá thành công, thì thời cuộc
liệu thay đổi ra sao? Mọi việc tùy thuộc biết bao nhiêu chữ “nếu”!
Sau hết, với người viết, tướng Khánh còn than phiền TT Diệm không giữ lời hứa
(viết tay) trao quyền lại cho Quân đội sau cuộc binh biến 11.11.1960.
Đây là một sự kiện khác mà tướng Khánh hẳn không quên. Trong một buổi
lễ long trọng truy điệu cố TT Ngô Đình Diệm taị thủ phủ Little Sàigòn,
Californie, tướng Nguyễn Khánh không tiếc lời ca tụng TT Diệm như một anh
hùng dân tộc mà ông ngưỡng mộ và quyết chí noi gương.
TT Diệm nể trọng đại tướng Lê Văn Tỵ, người duy nhứt trong
Quân đội được kêu bằng Ngài. Phiá dân sự, cách xưng hô này chỉ áp dụng đối
với Phó TT Nguyễn Ngọc Thơ và Bộ trưởng Ngoại giao Vũ Văn Mẫu, nhân vật cạo đầu
năm 1963 để phản đối trong vụ Phật giáo.
Tướng nào giỏi đóng tuồng và chuyên “trở cờ”? Tuy không
thân cận với giới tướng lãnh, ông Đức có thể trả lời theo một nhận định chung:
Trần Văn Đôn (em út của Tây con Nguyễn Văn Hinh và là người từng
công khai đốt lon sĩ quan Pháp để tỏ lòng trung thành với TT Diệm) và Tôn Thất
Đính (con cưng của chế độ trở giáo đâm sau lưng chế độ. Một Brutus hay một
Juda? ).
Ai thâm độc nhứt? Đỗ Mậu. Ông Mậu - một cột trụ Cần Lao - thú nhận đã mọp
lạy trước ông Đính (cũng là Cần lao gộc) để van xin Đính theo quân nổi loạn.
“Đại tá muôn năm” Đỗ Mậu hận vì TT Diệm cho rằng ông không đủ văn hoá để
tiến cao hơn. Người viết có dịp hỏi nguyên Thủ tướng Nguyễn Khánh nghĩ sao khi
chọn Mậu lãnh đạo Bộ Văn hoá không thích hợp chút nào với trình độ của y thì tướng
Khánh nheo mắt cười, trả lời: Mậu tự ti mặc cảm nhưng đầy cao vọng và được một
số Phật tử ủng hộ lúc đó. Việc bổ nhiệm này khuyến khích Mậu cọng tác sốt sắng
và đồng thời biến Mậu thành trò cười của quần chúng! Đây là một “đòn chánh trị”
quen thuộc của Nguyễn Khánh, kịch sĩ từng đả đảo Hiến chương Vũng Tàu do chính ông
cho thảo ra.
Một đòn khác của tướng Khánh: móc nối với Huỳnh Tấn Phát, lãnh tụ Mặt trận Giải
phóng Miền Nam, với chủ đích – theo lời tuyên bố của Khánh – kéo Phát về phiá
Quốc gia. Điều này bị Nguyễn Thị Bình phủ nhận hoàn toàn trong hồi ký Chung
Một Bóng Cờ, (nxb Chính trị Quốc gia, Hànội 1993). Chẳng những thế,
trang 453-454 của hồi ký còn tiết lộ Nguyễn Khánh đã vận động Hoa kỳ cúp viện
trợ và bỏ rơi TT Thiệu, Khánh công khai đi đêm với Mặt trận trong giai đoạn
chót của Hiệp định Paris.
“TT Diệm có thích được nịnh hót hay không?” Ý kiến
của Ông Đức: Tại Bắc Việt, Cộng sản đã thần tượng hoá Hồ Chí Minh. Trong Nam,
cũng có khuynh hướng ấy đối với ông Diệm, dưới nhiều hình thức, đặc biệt trong
Phong trào Cách mạng Quốc gia với số đoàn viên tăng từ 10,000 năm 1955 lên đến
2 triệu năm 1963, tổ chức đến tận xã, phường. Bộ trưởng Thông tin Trần Chánh
Thành bỏ hàng ngũ kháng chiến về cọng tác với ông Diệm từ lúc đầu như Trần Hữu
Phương, Trần Lê Quang…..Ông có công xây dựng Phong trào CMQG, tổ chức Chiến
dịch tố cộng và đề xướng “Suy tôn Ngô Tổng thống”.
Bất thuận với Trần Kim Tuyến, Thành rời Nội các cuối năm 1959. Ba bộ trưởng
khác ra đi cùng một lúc vì, với ông Thành, lập hồ sơ truy tố một số cán bộ
Cần lao dân sự và quân sự lộng quyền: Trần Trung Dung (Quốc phòng), Nguyễn Văn
Sĩ (Tư pháp) và người viết (Nội vụ). Bộ Thông tin bị đổi thành Nha Tổng Giám đốc
Thông tin do bác sỉ (Cần lao) Trần Văn Thọ phụ trách.
Ngày 30.4.1975, ông Thành (Nghị sĩ và Ngoại trưởng thời Nguyễn Văn Thiệu)
tự tử bằng thuốc độc tại nhà để tránh sa vào tay CS còn bs Tuyến thì được nhà
báo điệp viên Việt cộng nằm vùng Phạm Xuân A#n lấy xe chở đến một địa điểm dùng
trực thăng Mỹ thoát khỏi VN. Tuyến định cư tại Anh quốc nhờ bà Tuyến làm
việc cho Tòa Đại sứ Anh ở Sàigon. Tuyến làm chủ một nhà trọ bed and
breakfast gần Cambridge và qua đời cách đây vài năm, sau khi phát hành với Cao
Vĩ Hoàng quyển hồi ký “ Làm thế nào giết một Tổng thống?”
Theo ông QTD, TT Diệm cởi mở, bình dân trong những năm đầu
chấp chánh nhưng về sau, trở nên khó tánh và khép kín hơn. Ảnh hưởng của
quyền lực? hoàn cảnh ? giới cận thần a dua? Qua ba giai đọan Quốc Hội Lập
Hiến, Quốc Hội Lập Pháp kỳ 1 và Quốc Hội Lập Pháp kỳ 2, nền Đệ nhứt Cọng hoà đi
lần vào bế tắc.
Trong gia đình, ông bà Trần Văn Chương, nhạc gia của ông Nhu, - chồng, đại sứ
VNCH taị Hoa Thịnh Đốn và vợ, quan sát viên tại Liên Hiệp Quốc - lợi dụng
chức vụ để phản tuyên truyền và đả kích kịch liệt Chánh phủ Sàigòn và luôn cả vợ
chồng ông Nhu. Bác sĩ Trần Văn Đỗ, chú vợ của cố vấn Nhu, và luật sư Nguyễn Hữu
Châu, nguyên bộ trưởng Phủ Tổng thống kiêm Bộ trưởng Nội vụ, anh em bạn cột
chèo với ông Nhu, cũng không còn ủng hộ ông Diệm.
Ls Châu đào thoát qua Paris ngang con đường Nam Vang nhờ sự giúp đỡ của bạn học
cũ là Quốc vương Sihanouk. Ông đã trình luận án Thạc sĩ luật chỉ trích chương
trình viện trợ Hoa kỳ ở VN và sau đó, dạy luật taị Đại học Paris. Ls Châu
như khoa học gia Bửu Hội, năm 1972, cũng ngã theo ủng hộ Mặt trận Giải
phóng Miền Nam. Trần Văn Đôn- người chủ trương đảo chánh - nhìn nhận một cách
thương hại: Tội nghiệp, mọi người đều bỏ TT Diệm!
Ông QTĐ tỏ ra dè dặt đối với dư luận cho rằng TT Diệm kỳ thị
Phật giáo. Ông cho biết TT Diệm thường tiếp xúc với các vị tu hành thuộc mọi
tôn giáo, đặc biệt Phật giáo; không bỏ qua dịp viếng thăm một số chùa như chùa
Sư Nữ của Sư bà Diệu Huệ (mẹ giáo sư Bữu Hội) ở Phú Lâm, chùa Diệu Đế ở
Huế..v..v..Chính ông Đức đã nhiều lần chuyển đến tay ông Mai Thọ Truyền, chủ
chùa Xá lợi và Hội trưởng Hội Phật giáo Nam Việt những số tiền giúp đở. Một
chuyện mà ít người biết là TT Diệm đã hiến cho Đức Đạt Lai Lạt Ma trọn số
tiền 15.000 mỹ kim, giải thưởng Leadership Magsaysay tặng cho Tổng thống.
Vì lý do chánh trị, quyết định này không được công bố.
Ủy ban tôn giáo Liên Hiệp Quốc được Chánh phủ Saigòn mời
đến điều tra năm 1963 cũng đã phúc trình - sau ngày hai ông Diệm, Nhu bị
giết - rằng Đệ nhứt Cọng hoà không kỳ thị tôn giáo. Mặt khác, TT Diệm đã từng
thẳng thắn bác bỏ những yêu sách quá đáng của các giáo phẩm di cư, bởi thế nên
có sự bất mãn ngấm ngầm. Hai Giám mục Phát Diệm, Bùi Chu Lê Hữu Từ và Phạm Ngọc
Chi chống đối ra mặt.
Cho đến ngày TT Diệm qua đời, phần đông các người phục vụ
sát cạnh bên Tổng thống hàng ngày đều thuộc thành phần Phật giáo: Đổng lý
(QTĐ), Tổng thơ ký Nguyễn Thành Cung, Chánh văn phòng Võ Văn Hải, bí thơ Trần Sử,
nội dịch Tôn Thất Thiết, cận vệ Nguyễn Bằng…..
Vấn đề thủ tiêu các người đối lập và việc tiếp xúc của ông
Nhu với đối phương Cộng sản.
Sau chánh biến 1.11.1963, Hội đồng Quân nhân Cách Mạng tố cáo chánh quyền Diệm
đã thủ tiêu một số ngưới đối lập như Nguyễn Bảo Toàn, Tạ Chí Diệp, Vu Tam Anh,
Hồ Hán Sơn, ..v..v..
QTĐ tuyên bố không biết gì về những chuyện này thuộc thẩm quyền các cơ quan
công an, tình báo. Tuy nhiên, ông tin chắc rằng ông Diệm không bao giờ đích
thân chủ trương như vậy vì Tổng thống là một tín đồ Công giáo thuần thành, phân
biệt tội phước, không khát máu như Cộng sản mà ông tích cực chống đối. Có thể một
số nhân viên an ninh cuồng tín đã hành động để lấy điểm (excès de zèle) hay giải
thích sai lầm chỉ thị cấp trên.
Một bằng chứng cụ thể là TT Diệm chỉ ra lệnh giam chớ không cho xữ tử Hà Minh
Trí, một cán bộ Cao Đài, mưu sát hụt ông tại Ban Mê Thuột và gây thương tích
cho Bộ trưởng Đỗ Văn Công. Hà Minh Trí được Hội đồng Cách Mạng trả tự do khi họ
đã giết TT Diệm.
Câu hỏi nêu ra là cuối cùng, TT Diệm có hay biết các vụ thanh toán toán đối lập
hay không và phản ứng thế nào? Dù sao, lịch sử vẫn đặt vấn đề trách nhiệm
tinh thần đối với ông.
Trong giai đoạn chót của chế độ, có tin đồn trong quần chúng và báo giới Mỹ rằng
cố vấn Ngô Đình Nhu đi đêm với CS kháng chiến để tìm ra giải pháp giữa Nam, Bắc.
Chính ông Nhu có đề cập đến chuyện này trong vài phiên nhóm với tướng lãnh tại
Bộ Quốc phòng và ngày 23.7.1963 taị suối Lồ Ồ khi nóí chuyện với các cán
bộ xây dựng Ấp Chiến lược khoá 13.
Một nguồn tin khác cho biết ông Nhu xử dụng trung gian cuả bốn đại
sứ Roger Lalouette (Pháp), d’Orlandi (Ý), Goburdhun (Ấn dộ) và Manelli (Ba
Lan), (hai ông sau là thành viên của Ủy ban Quốc tế kiểm soát đình chiến) cũng
như Tổng lãnh sự Pháp ở Bắc Việt Jacques de Buzon để
liên lạc với Hànội.
Ông QTĐ nói có nghe dư luận này nhưng không biết rỏ chi tiết. Ông cũng có nghe xầm xì rằng ông Nhu đã gặp một đại diện Văn phòng Chính trị CS (Phạm Hùng?) trong lần đi săn tại Quận Tánh Linh, Bình Tuy. Ông Đức nghĩ đây chỉ là một đòn chiến thuật của ông Nhu để dằn mặt Hoa kỳ, Tổng thống Diệm không bao giờ chấp nhận giải pháp điều đình với Hồ Chí Minh.
Ông QTĐ nói có nghe dư luận này nhưng không biết rỏ chi tiết. Ông cũng có nghe xầm xì rằng ông Nhu đã gặp một đại diện Văn phòng Chính trị CS (Phạm Hùng?) trong lần đi săn tại Quận Tánh Linh, Bình Tuy. Ông Đức nghĩ đây chỉ là một đòn chiến thuật của ông Nhu để dằn mặt Hoa kỳ, Tổng thống Diệm không bao giờ chấp nhận giải pháp điều đình với Hồ Chí Minh.
Hơn nữa, Hiến pháp VNCH
có ghi rõ chủ trương của Miền Nam Việt Nam chống chủ nghĩa vô thần. Ông Đức
còn xác nhận: một Tết Nguyên Đán trước 1963, một cành đào đỏ lộng lẫy được
trưng bày nơi phòng khánh tiết Dinh Độc lập với tấm thiệp in tặng của “Chủ tich
Nhà nước Cọng hoà Xã hội Miền Bắc”.
42 năm trôi qua, mọi công dân VN, ủng hộ hay chống đối ông
Diệm, đều cảm thấy nhục nhã khi đọc lại những lời thú nhận sống sượng của tướng
Trần Văn Đôn, đầu não trong chánh biến 1.11.1963 và tác giả của quyển hồi
ký “VN Nhân Chứng” (nxb Xuân Thu, Californie, 1989) về vai trò Hoa kỳ
chỉ huy vụ lật đổ và sát hại một lãnh tụ đồng minh.
Đôn viết: “Đúng
1 giờ 30 trưa, (trùm Xịa) Conein vào bộ Tổng Tham mưu, (nơi đặt văn phòng
của Đôn) mang theo một máy truyền tin đặc biệt để liên lạc với Toà Đại sứ
Mỹ và một bao tiền là ba triệu bạc VN” (trang 211). Đôn còn tuyên bố khi y
thậm thọt gặp riêng Thái thú Cabot Lodge để thỉnh thị: “Chúng tôi (nhóm đảo
chính) không bao giờ có tham vọng cá nhân, chỉ muốn cứu nước!” (trang 210)
Trong hồi ký VN Nhân Chứng, đọan chót, Trần Văn Đôn cho
biết ba triệu bạc -cái giá rẻ mạt để thay đổi một thế cờ! - đã chia cho Dương
Văn Minh, Lê Văn Kim, Tôn Thất Đính, Nguyễn Hữu Có, Đổ Cao Trí, Nguyễn Khánh,
Trần Ngọc Tám và Lê Nguyên Khang.
Ông Đức tỏ ra ngán ngẩm khi được hỏi nghĩ gì về sự tự thú trên đây. Theo ông, trong những ngày chót của một cuộc đời đấu tranh gian khổ, TT Diệm là con người cô đơn nhứt trên thế gian: dân tộc bỏ rơi, đồng minh phản bội, gia đình chia cách, kẻ thù cộng sản reo hò chiến thắng, sự nghiệp chính trị ra tro, uất hận ngất trời vì tương lai mù mịt của Đất nước, một quốc gia bị sức mạnh chèn ép. Với ông Nhu quỳ bên cạnh cầu nguyện trong Nhà thờ Cha Tam Chợ Lớn sáng ngày 1.11.1963. không chắc TT Diệm đồng một tâm tư với người em.
Ông Đức tỏ ra ngán ngẩm khi được hỏi nghĩ gì về sự tự thú trên đây. Theo ông, trong những ngày chót của một cuộc đời đấu tranh gian khổ, TT Diệm là con người cô đơn nhứt trên thế gian: dân tộc bỏ rơi, đồng minh phản bội, gia đình chia cách, kẻ thù cộng sản reo hò chiến thắng, sự nghiệp chính trị ra tro, uất hận ngất trời vì tương lai mù mịt của Đất nước, một quốc gia bị sức mạnh chèn ép. Với ông Nhu quỳ bên cạnh cầu nguyện trong Nhà thờ Cha Tam Chợ Lớn sáng ngày 1.11.1963. không chắc TT Diệm đồng một tâm tư với người em.
Ông Đức bùi ngùi nhắc lại: Tối 1.11.1963, khi tiếng súng nổ
rền khắp nơi, ông và gia đình rời khỏi nhà riêng ở số 8 đường Lê Văn Thạnh,
Sàigòn, ngủ đêm tại Chợ Lớn, không xa căn phố lầu của Mã Tuyên, nơi Tổng thống
và ông Nhu tạm ngụ. Sáng hôm sau 2 tháng 11, trô lại nhà thì được hay Tổng thống
có điện thoại tối hôm trước nhưng người giữ nhà trả lời không biết ông Đức ở
đâu. Vài giờ sau, ra-dô báo tin hai ông Diệm, Nhu “tự tử”, điều mà Đức không
tin chút nào. Đến nay, ông Đức vẫn ân hận vì không được tiếp xúc lần chót với Tổng
thống.
Hỏi: Trong Nội các, ai được Tổng thống Diệm tin cậy nhứt những
ngày, tháng cuối cùng?
QTĐ đáp: Nguyễn Đình Thuần và Trương Công Cừu.
Thuần
kiêm ba trọng trách: Bộ trưởng taị Phủ Tổng thống, Bộ trưởng phụ tá Quốc phòng,
và Bộ trưởng Đặc nhiệm Phối hợp An ninh. Cừu là Bộ trưởng Đặc nhiệm Phối hợp
Văn hoá Xã hội. Ngoài ra, còn có Ngô Trọng Hiếu, Bộ trưởng Công dân vụ, từng là
đại sứ VNCH ở Nam Vang, bị Chánh phủ Cam bốt trục xuất vì giúp cho tướng Đap
Chuon đảo chánh (hụt) Quốc vương Sihanouk. Tên ông Hiếu nằm trong bản danh sách
của Cabot Lodge ghi các nhân vật cần thanh toán, theo hồi ký nêu trên của trung
tá Nguyễn Văn Châu.
Ông Đức không ngạc nhiên cho lắm khi được người viết cho biết
một số tài liệu giải mật taị Hoa kỳ tiết lộ Thuần là tay trong thân tín của
CIA, theo dõi để phúc trình từng phản ứng của hai anh em Diệm-Nhu. Thuần từng
được Mỹ chấm như một “Thủ tướng có triển vọng” nếu TT Diệm chịu sửa Hiến pháp để
đặt thêm chức vụ này (đọc The Storm has many eyes, A personal
narrative của Henri Cabot Lodge, NY 1973, trang 62 và Lodge in
Vietnam, A Patriot abroad của Ann Blair, nxb Yale University Press,
New Haven 1995, trang 92).
Một số nhân vật rất gần Dinh Độc lập cho biết Thuần dùng đủ
mưu chước để thu hút cảm tình của TT Diệm và từ đó, tìm cách ly gián ông Diệm
và ông Nhu trong giai đọan chót của chế độ. Ông QTĐ ngạc nhiên khi hay chính Đệ
nhị Phòng Pháp đã giúp Thuần trốn khỏi VN. Cố Ứng Thi, chủ của Khách sạn Rex và
bạn thân của Thuần, xác nhận với người viết điểm vừa nói. Thuần hiện sống thong
dong taị Paris.
Tác giả bài này thắc mắc: không lẽ một ngưởi tinh vi như ông
Nhu mà không nhận ra mặt trái của Nguyễn Đình Thuần?
Ông Đức trả lời: Có thể
ông Nhu không mù quáng nhưng ở vào thế kẹt lúc đó, không còn ai liên lạc để dò
xét âm mưu đen tối của Hoa kỳ, ông Nhu phải “tương kế, tựu kế.” xử dụng Thuần.
Ông Nhu cũng đã áp dụng chiến thuật này (kế hoạch chống đảo chánh Bravo) để tìm
cách chi phối nhóm tướng bị Mỹ mua chuộc.
Ông Đức cho biết thêm: Linh mục Cao Văn Luận cũng là một cố
vấn thân tín của Tổng thống được giao phó ra nước ngoài xin tài trợ về giáo dục,
tìm kiếm trí thức Việt đưa về nước và tổ chức Viện Đại học Huế mà ông là Viện
trưởng đầu tiên. Trong giai đoạn khủng hoảng Phật giáo, dư luan cho rằng
cha Luận đã trở mặt, ngã theo phe chống chánh quyền. Chẳng những thế, ông còn
viết hồi ký “Trong giòng lịch sử “ để nói xấu TT Diệm và đề cao Hồ Chí
Minh. Tình đời đen bạc!
Ông QTĐ quả quyết không bao giờ gặp Vũ Ngọc Nhạ (mà CS tuyên
bố phịa trong quyển sách và bộ phim giả tưởng Ông Cố Vấn gài được vào Dinh Độc
Lập!).
Trả lời về các cán bộ gốc Cộng sản cọng tác với chế độ, ông Đức cho
biết Kiều Công Cung – nguyên tư lệnh một sư đoàn Việt cộng – đã tỏ ra xứng
đáng đến cùng trong chức vụ Đặc ủy chiêu hồi. Phạm Ngọc Thảo – mà Tổng
Nha Công an có hồ sơ – được bổ nhiệm đại úy Bảo An, sau đó Tỉnh trưởng Kiến
Hoà và thanh tra dinh điển. Hai chuyên viên Mỹ về Giáo dục và Dinh điền thường
lui tới Dinh và ăn sáng với Tổng thống là giáo sư Wesley Fishel thuộc Đại học
Michigan và Ladejinsky mà Tổng thống quen từ lúc bôn ba ở Hoa kỳ
Ngày Quốc khánh Hoa Kỳ 2005.
Thuỷ Hoa Trang, California.
Thuỷ Hoa Trang, California.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét