10-1968
Và còn bao nhiêu thế hệ thiếu nhi thanh niên nữa sẽ phải hy sinh cho "ảo tưởng" tiến lên XHCN ? |
Năm 1954, sau chín năm ê chề mòn mỏi vì chiến tranh, thấy hòa bình ai nấy nhẹ nhõm; nếu có kẻ nào lúc đó mà xếp đặt một cuộc tàn sát nữa, kẻ ấy tất gan đồng dạ sắt. — Thì Hồ Chí Minh đã xếp đặt cuộc tàn sát ngay vào thời kỳ ấy.
Năm 1968, sau hăm ba năm chiến tranh thảm khốc, nghe nói hòa bình mọi người mừng rơn. Nghĩ tới hàng triệu người đã bỏ thây trong thời gian qua, ai cũng tưởng làm người Việt Nam mà có kẻ dám để ý nghĩ mon men đến chiến tranh nữa, kẻ ấy thật mặt dày mày dạn, tán tận lương tâm. — Thì Hồ Chí Minh chính đang xếp đặt thêm một cuộc chiến tranh."
Trong bao nhiêu năm trời, chúng
ta đã quen với nếp sống chiến tranh đến nỗi hòa bình làm chúng ta bối rối.
Nhưng thiết tưởng ngưng chiến không đáng làm chúng ta bận tâm đến thế. Chiến
tranh này sắp kết thúc, bằng cách này hay cách khác, hoặc sớm hơn một ít hoặc
chậm hơn một ít. Chuyện phải đến rồi sẽ đến, nó xảy đến ra sao dường như cũng đã
được trù liệu.
Cái đáng bận tâm là những điều
tiếp theo cuộc ngưng chiến ấy.
— Thì các vị lãnh đạo của chúng
ta đã tiên liệu rồi: đấu tranh chính trị chứ gì? kinh tế hậu chiến chứ gì?
Đấu tranh chính trị, nó hiển
nhiên quá, nó sờ sờ ra đấy, tưởng như rờ mó được. Nói rằng trong giai đoạn tới
ta với cộng sản phải đấu tranh chính trị với nhau, nói thế gần như không phải
là tiên liệu gì ráo. Đó là đối phó. Chuyện ấy đến ngay trước mắt rồi, ta buộc
lòng phải đối phó tức khắc, thế thôi.
Nhưng nói thế còn là khá. Hầu hết
mọi người chỉ chăm vào những cái gần hơn nữa: hàng mấy trăm ký giả mỗi tuần bu
đến phòng họp báo của các phái đoàn Hoa Kỳ và Bắc Việt để ghi lấy dăm ba câu
tuyên bố loanh quanh, các bình luận gia khét tiếng của báo này báo kia, đài này
đài nọ bóp trán suy đoán xem lúc nào thì ngưng oanh tạc dưới vĩ tuyến 19 v.v...
Thiên hạ theo dõi ý kiến của họ.
Trong lúc ấy nhóm lãnh đạo ở Hà
Nội lặng lẽ lo liệu công việc mai sau: tức một cuộc chiến tranh khác. Một cuộc
chiến tranh quân sự hẳn hòi. Và họ tiến hành thực hiện chuẩn bị, ngoài sự chú ý
của dư luận: các bình luận gia có tiếng, khét hay không khét, gần như không mảy
may quan tâm đến chuyện ấy.
Thế mà đó mới là chuyện đáng quan
tâm. Thiết tưởng là chuyện đáng quan tâm hơn cả vào lúc này. Bởi vì nếu ta mù
tịt về ý định của đối phương trong tương lai thì trong cuộc đối thoại thương
thuyết với họ hiện thời ta làm sao biết đặt ra những điều kiện cần thiết?
Cuộc bắn giết sắp tới giữa Miền
Nam và Miền Bắc đã được cộng sản xếp đặt từ lúc này, cũng như cuộc bắn giết thê
thảm mười năm qua được họ xếp đặt từ trước tháng 7-1954, trước ngày đình chiến
theo hiệp định Genève.
Thượng tuần tháng 7-68 một nhóm
luật gia họp ở Grenoble buộc Hoa Kỳ vào tội gây chiến tại Việt Nam. Sau đó,
nhóm luật gia tranh đấu chính trị Việt Nam họp tại Sài Gòn cãi lại: Mặt trận
Giải phóng Miền Nam đã thành lập từ năm 1958 và ra mắt ngày 20-12-1960, còn
người lính Mỹ đầu tiên chỉ mới tử trận trên lãnh thổ Miền Nam ngày 22-12-61.
Người của pháp luật, họ cãi lý
với nhau, họ bắt bẻ nhau như thế. Không hiểu sao họ chỉ nói tới Mặt trận Giải
phóng Miền Nam. Trước họ, nhiều người đã đi ngược lên tới Mặt trận Tổ quốc, và
xa hơn Mặt trận Tổ quốc: tới cái nghị quyết của đảng Lao động đã đẻ ra Mặt trận
này.
Mặt trận này, mặt trận nọ..., đó
là những bằng chứng đã có tên gọi. Chờ cho cộng sản đặt tên rõ ràng các hoạt
động của họ mới chịu cho rằng họ hoạt động tức là nghĩ tệ về họ nhiều quá. Họ
đâu có chậm chạp như vậy? Trước những hoạt động có tên gọi đã từng xảy ra nhiều
hoạt động không tên gọi, và trước cả các hoạt động không tên là những toan tính
xếp đặt kỹ càng.
Khi họ nhận thấy không thể thanh
toán cả nước Việt Nam một lần, mà phải chấp nhận điều đình với Pháp để giữ lấy
nửa nước, thì họ đã đặt ngay vấn đề: còn lại nửa nước kia, phải giải quyết ra
sao? Và họ đặt kế hoạch “giải quyết”, cùng lúc với kế hoạch điều đình. Nghĩa là
vào năm 1954, chứ không phải năm 1958.
Thật vậy, hiệp định đình chiến
vừa ký kết, thì những điều khoản ngưng cuộc chiến tranh bấy giờ được họ thi
hành đồng thời với những điều chuẩn bị cuộc chiến tranh sau. Đồng thời, không
muộn hơn một ngày nào.
Lúc ấy chính quyền quốc gia lo
đùm túm kéo nhau vào Nam, và tổ chức cuộc di cư cho đồng bào Miền Bắc. Di cư là
đi cả nam lẫn nữ, cả già lẫn trẻ: công chức già thì vào theo nhà nước để lãnh
hương hưu, các cụ cố thì theo con cháu vào để được nuôi nấng và chết giữa đám
con cháu v.v...
Cũng lúc ấy, cộng sản lo liệu
công việc của họ có lớp lang:
— Vũ khí, họ chôn giấu lại một số
ở Miền Nam;
— Cán bộ và binh sĩ, họ chọn lựa
một số cho ở lại: có hạng được bố trí để len lỏi vào các cơ quan quốc gia, có
hạng trở về cuộc sống thường dân chờ thời cơ, có hạng đổi vùng để hoạt động, có
hạng vừa lẩn trốn vừa bám lấy địa phương để hoạt động v.v...
— Địa chủ, phú nông, trót bị
ngược đãi tù tội, đều được tha thứ, giải thích, dỗ dành để xóa bỏ hận thù.
Những thành phần không dỗ dành được thì họ thủ tiêu, vì xét nguy hiểm đối với
tính mạng những cán bộ nằm vùng của họ;
— Tập kết theo nguyên tắc: Đưa ra
Bắc hạng trai trẻ có thể làm việc đắc lực và sản xuất giỏi cùng hạng có uy tín
có khả năng; bỏ lại trong Nam hạng lão nhược có thể làm một gánh nặng cho quốc
gia. Cố ý gây phân ly chia cách, làm thế nào để mỗi gia đình đều có kẻ đi người
ở;
— Gấp rút tạo thêm nhiều liên hệ
giữa thành phần tập kết ra Bắc và dân chúng Miền Nam: đặc biệt là tổ chức những
đám cưới cấp tốc khiến cho hàng chục vạn binh sĩ và cán bộ Việt cộng ra đi bỏ
lại trong Nam bấy nhiêu cô vợ trẻ, có những cô chỉ ăn ở với chồng được đôi ba
hôm.
Bấy nhiêu cô vợ trẻ và gấp đôi
gấp ba chừng ấy cha mẹ già cùng cô cậu chú bác v.v... là một lực lượng đáng kể.
Bằng chính sách tập kết và gây liên hệ này, cộng sản cưỡng bức một số người về
sau phải làm nội tuyến cho chúng.
Ngay từ đầu, tình cảm của những
người này đã hướng về Bắc, theo bóng kẻ thân yêu. Thái độ và hoàn cảnh éo le
của họ khiến nhà chức trách địa phương lo ngại, đề phòng. Do đó, họ thành một
khối người dần dần sống cách biệt, nếu không là đối lập với chính quyền miền
Nam. Một vài trường hợp đối xử vụng về bị khai thác, một vài sự hiểu lầm bị xuyên
tạc: thế là mâu thuẫn giữa hai bên trở thành trầm trọng.
Rồi một ngày kia,
chuyện được tính trước sẽ xảy ra. Xin thử tưởng tượng: gia đình có đứa con hay
người chồng ra Bắc năm 1954, hai năm sau, một đêm nào đó, có kẻ lạ mặt lẻn vào
nhà, lén lút trao cho xem một lá thư và một tấm hình mới nhất của con hay của
chồng từ Bắc mang vào, gia đình nọ làm sao nỡ tố giác kẻ lạ mặt, dù biết họ
đang gây loạn. Đã không tố giác được, tất phải che giấu, nuôi dưỡng mối liên
lạc. Từ việc này đến việc khác, gia đình nọ dần dần đi sâu vào sự cộng tác với
tổ chức bí mật của đối phương, chịu mệnh lệnh của họ, rốt cuộc gia nhập hẳn vào
hàng ngũ của họ.
Chính vì như thế mà thư từ hình
bóng của cán binh tập kết có giá trị đặc biệt quan trọng: những năm 1956, 57,
58, cán bộ từ ngoài Bắc xâm nhập vào hoạt động, trong người họ bao giờ cũng
mang theo một số thư từ, hình bóng của cán binh tập kết. Đó là lợi khí hết sức
đắc dụng giúp họ đặt các cơ sở quần chúng đầu tiên.
Gây được cơ sở quần chúng, vận
động được sự đóng góp số lương thực tiền bạc cần thiết để nuôi quân rồi, bấy
giờ các lực lượng vũ trang tại chỗ bắt đầu được thành lập, các lực lượng vũ
trang ngoài Bắc kéo vào. Sau đó mới có cái Mặt trận Giải phóng ra đời.
Như vậy, cuộc chiến hiện nay
không hề khởi đầu từ những bất mãn chống một chế độ độc tài gia đình trị, không
hề khởi đầu từ sau việc chính quyền Sài Gòn từ chối cuộc tổng tuyển cử 1956,
không hề khởi đầu từ ngày khai sanh mặt trận nọ mặt trận kia.
Cuộc chiến này xuất hiện ngay từ
những cuộc liên hoan chia tay giữa kẻ ở người đi trong thời hạn 300 ngày tập
kết, những cuộc liên hoan có hát có múa, có bánh trái tiệc tùng... Nó xuất hiện
ngay từ những đám cưới vội vã sau ngày đình chiến, những đám cưới lắm khi tổ
chức tập thể, do trưởng cơ quan, trưởng đơn vị chủ tọa. Nạn nhân đầu tiên của
cuộc chiến này không phải là những kẻ ngã gục vào 1958, 1959, mà là những cô
gái tức khắc biến thành góa bụa từ 1954.
Dân chúng Miền Nam ai nấy đều
biết những bận rộn tới tấp, những công việc bề bộn ngổn ngang mà nhà cầm quyền
cộng sản hồi ấy phải làm cho kịp trước khi rút ra Bắc. Trong hoàn cảnh rộn ràng
bấy giờ, nếu không vì lý do quan trọng, chắc chắc đảng và nhà nước cộng sản hồi
ấy không đến nỗi quá sốt sắng lo cưới vợ cho cán binh như thế. Chắc chắn. Dù
tìm trong bất cứ thời kỳ lịch sử nào của bất cứ dân tộc nào, cũng hiếm thấy một
trường hợp chính phủ lo vợ cho quan binh túi bụi đến chừng
ấy.
Cũng như hiện nay, trong giai
đoạn ác liệt sau cùng của chiến cuộc tại miền Nam này, nếu không vì lý do quan
trọng, đảng và nhà nước cộng sản nhất định không bao giờ khổ công gom góp thiếu
nhi ở đây đưa ra Bắc, trải qua bao nhiêu gian nan khó nhọc, trong những điều
kiện di chuyển nguy hiểm đến nỗi cả các binh sĩ khỏe mạnh của họ cũng phải hao
mòn suy kiệt dọc đường.
Đưa thiếu nhi Miền Nam ra Bắc,
không phải cộng sản họ nhằm làm nhẹ một gánh nặng nuôi dưỡng, giúp các ông tổng
trưởng Kinh tế hoặc Xã hội của chúng ta. Mọi người đều rõ, tại Bắc Việt và
Trung Cộng, người ta tiết giảm sinh sản rất gắt gao: họ hạn chế hôn nhân, hạn
chế luyến ái.
Đưa thiếu nhi Miền Nam ra Bắc,
cũng không phải cộng sản họ nhằm giúp ông tổng trưởng Giáo dục của chúng ta một
tay để giải quyết nạn thiếu trường ở trong này.
Trong giới quan sát nhiều kẻ bảo
rằng Bắc Việt kiệt quệ rồi, không đủ sức kéo dài chiến tranh nữa, họ bối rối
lắm, luống cuống lắm. Dù không tin vào nhận định ấy, ít ra cũng phải chịu rằng
lúc này họ bận trăm công nghìn việc, nếu chuyện bắt trẻ Miền Nam không có một
tầm quan trọng đặc biệt thì họ không hơi đâu nghĩ đến. Đàng này họ đang ra sức
thực hiện một kế hoạch bắt trẻ qui mô trên một phạm vi hết sức rộng lớn: đồng
loạt, người ta phát giác ra trẻ em bị bắt ở khắp nơi trên toàn quốc Việt Nam Cộng
hòa, từ Quảng Trị, Thừa Thiên, Pleiku, Kontum, đến Mỹ Tho, Cà Mau, người ta gặp
những toán trẻ em chuyển ra Bắc Việt bằng phi cơ từ Cam-bốt, hoặc bị dẫn đi lũ
lượt trên đường mòn Hồ Chí Minh, nghĩa là bằng mọi phương tiện, một cách gấp
gáp.
Họ bổ sung quân số đó chăng? —
Không đâu. Trẻ bị bắt có hạng mới tám chín tuổi. Trong những trường hợp khẩn
cấp, họ có thể tạm sử dụng một số trẻ con bắt được ngay tại địa phương; chứ
thành lập những đơn vị con nít như thế để dùng ngay vào chiến cuộc này là
chuyện điên rồ. Không phải bổ sung quân số đưa vào chiến cuộc đang kết thúc
đâu, mà là họ đang tổ chức chiến cuộc mai sau đấy.
Đem chút ít kinh nghiệm về lần
trước để suy nghiệm về lần này, chúng ta thấy trước dăm ba điều họ sẽ làm sau
khi thỏa ước ngưng chiến được ký kết:
— Họ sẽ bỏ lại Miền Nam tất cả
những thương phế binh, những cán bộ lâm nạn, tàn tật v.v... Mang mỗi phần tử vô
dụng như thế về Bắc chỉ gây thêm xúc động tâm lý trong quần chúng ngoài ấy; để
hạng ấy ở lại, họ tạo thêm gánh nặng cho kinh tế Miền Nam;
— Lúc cuộc “chiến tranh chính
trị” mà các nhà lãnh đạo Miền Nam vẫn nói được bắt đầu, thì bao nhiêu ức vạn
gia đình có con cháu ra Bắc (và những cô gái có chồng lính cưới vội cưới vàng
trước khi về Bắc nữa) hóa ra những thành phần mà chánh quyền ta không sao lôi kéo
tranh thủ nổi. Lòng họ hướng về những con tin ở ngoài Bắc, phân nửa sinh mạng
họ do nhà đương cuộc Miền Bắc định đoạt. Thái độ của họ khiến nhà chức trách
địa phương có thể phạm vào vài biện pháp kỳ thị vụng về: thế là phát sinh mâu
thuẫn, bất mãn, chống đối v.v...
— Một ngày nào đó, những cán bộ
từ Bắc lại lén lút xâm nhập , mang theo thư từ của con, của chồng họ: họ mừng
như mở cờ trong bụng. Họ bắt tay cộng tác với những cán bộ nọ, cùng nhau hoạt
động để tạo điều kiện cho chồng con họ sớm trở về ồ ạt theo những đơn vị Nam
xâm v.v...
Cán binh gốc người Miền Nam đưa
ra Bắc, rồi lại phái trở vào có nhiều cái lợi: khi được lệnh vào Nam hoạt động,
họ mừng rỡ vì có cơ hội về quê; họ ra đi lặng lẽ, không có bà con thân thuộc ở
Bắc nên không gây xao xuyến gì trong dân chúng, vừa giữ được yếu tố bí mật vừa
tránh được tác động tâm lý bất lợi; họ lại được mong chờ đón đợi ở Miền Nam; và
họ thông thạo am hiểu về dân tình cùng địa thế Miền Nam.
Như thế, chủ trương bắt đám trẻ
em ở miền đồng bằng Nam Việt bát ngát, phì nhiêu đem ra xứ Bắc đông người đất
hẹp, nhà cầm quyền Hà Nội chính đang bắt đầu chiến cuộc mai sau ngay từ lúc
này, lúc mà chúng ta còn đang xôn xao mong ước ngưng chỉ chiến cuộc hiện tại.
Nói họ bắt đầu lúc này cũng chưa đúng: thực ra các tài liệu về “Vấn đề gửi các
cháu ra Miền Bắc” đã được phổ biến trong hàng ngũ cộng sản từ tháng 4-68, và
thúc giục thực hiện trước mùa mưa năm nay. Tháng 4-68, tức là liền ngay sau khi
tổng thống Mỹ mở miệng thốt ra vài dấu hiệu tỏ ý xuống thang chiến tranh để đi
tới điều đình.
Điều đình để nghỉ ngơi, đối với
Mỹ và chúng ta là thở ra một hơi dài nhẹ nhõm. Điều đình đối với cộng sản là bỏ
cuộc nửa chừng, là đành không ăn được keo này. Thua keo này họ bày liền keo
khác ngay, vì ngưng chiến thế nầy, theo họ, là một sự dở dang, là chưa hoàn tất
công việc. “Thế này rồi thôi luôn hả? Nói thế mà nghe được! Sao có thể quan
niệm một cách giải quyết giản đơn, vô duyên đến thế?”
Ý tưởng về ngưng chiến của chúng
ta dính liền với một mơ ước xây dựng: bao nhiêu tỷ bạc cho Miền Nam, bao nhiêu
tỷ bạc cho Miền Bắc, trao đổi kinh tế ra sao, trao đổi văn hóa thế nào v.v... Ý
tưởng về ngưng chiến của cộng sản dính liền với một kế hoạch tấn công quân sự.
Và những nạn nhân đầu tiên của trận chiến tương lai là những đứa bé con và bố
mẹ chúng đã chịu đau thương từ sáu tháng qua rồi. Trận chiến tranh tương lai đã
chọn nạn nhân của nó trong đám trẻ thơ, đàn bà Miền Nam, để biến họ thành con
côi vợ góa. Xong rồi. Việc đã bắt đầu từ nửa năm nay rồi.
Trước một đối thủ như thế, thái
độ của những chính khách Việt Mỹ hằng ngày đấm ngực đồm độp, băn khoăn, tự
trách mình cái lỗi không kết thúc được chiến cuộc, thái độ ấy ngây ngô đã đành.
Thái độ của những người hớn hở với một kế hoạch kinh tế hậu chiến nào đó, nghĩ
cho cùng cũng mỉa mai tội nghiệp: liệu rồi hưởng được mấy năm hòa bình trước
mắt mà hí hửng tính chuyện xây dựng, mà mơ cảnh thịnh vượng? Rồi đến thái độ
của những kẻ nhìn xa để báo động về một cuộc chiến tranh chính trị: bảo rằng
đối phương rồi đây chỉ có hoạt động chính trị, như vậy không khác gì chỉ vào
con cọp mà gọi là con chó. Gần như tự lừa mình, như giúp địch ngụy trang.
Dù cho chỉ có chiến tranh chính
trị với nhau, đố ai, đố đảng phái nào, liên minh nào, phong trào nào của chúng
ta mà thuyết phục được mấy vạn ông bà cha mẹ có con cháu ở Bắc, mấy vạn góa phụ
có chồng ở Bắc, thuyết phục được họ thành thực theo ta? Chỉ nắm lấy chừng ấy
vạn người, cộng sản Bắc Việt đã có trong tay một lực lượng to lớn hơn mọi đoàn
thể chính trị của chúng ta, lực lượng nằm ngay trong lòng quần chúng ta, hàng ngũ
ta, mà hoạt động. Ấy là chỉ so sánh về lượng. Mặt khác, trong số các đoàn viên
phong trào quốc gia, đảng viên quốc gia v.v... hạng thực sự nhiệt thành vì lý
tưởng được bao nhiêu? Và riêng trong hạng nhiệt thành có được bao nhiêu kẻ mà
lòng thiết tha đối với lý tưởng có thể mạnh hơn lòng thiết tha với chồng con
của những phần tử bị cộng sản lợi dụng kia?
Dù cho chỉ có đấu tranh chính trị
với nhau thôi, chúng ta đã bất lợi như thế. Huống chi đó chỉ là hành vi tốt
lành lương thiện mà ta gán cho đối phương. Còn họ..., nếu vạn nhất trong thời
gian năm bảy năm sắp tới mà đất nước này thoát khỏi một trận chiến tranh nữa,
thì đó là ý trời, không phải là ý của họ đâu.
Ý của họ, nó tàn nhẫn đến nỗi
chúng ta không dự liệu tới, không tưởng tượng được. Đó là chỗ nhược của ta.
Năm 1954, sau chín năm ê chề mòn
mỏi vì chiến tranh, thấy hòa bình ai nấy nhẹ nhõm; nếu có kẻ nào lúc đó mà xếp
đặt một cuộc tàn sát nữa, kẻ ấy tất gan đồng dạ sắt. — Thì Hồ Chí Minh đã xếp
đặt cuộc tàn sát ngay vào thời kỳ ấy.
Năm 1968, sau hăm ba năm chiến
tranh thảm khốc, nghe nói hòa bình mọi người mừng rơn. Nghĩ tới hàng triệu
người đã bỏ thây trong thời gian qua, ai cũng tưởng làm người Việt Nam mà có kẻ
dám để ý nghĩ mon men đến chiến tranh nữa, kẻ ấy thật mặt dày mày dạn, tán tận
lương tâm. — Thì Hồ Chí Minh chính đang xếp đặt thêm một cuộc chiến tranh.
Vậy mà ông ta vẫn an nhiên hưởng
sự trọng vọng của bao nhiêu người, kể cả người Việt Nam! Cho hay cái sản phẩm
quái dị của thế kỷ văn minh này là tuyên truyền chính trị, nó có một ma lực mê hoặc
phi thường. Không phải thứ tuyên truyền yếu ớt vận dụng một cách khó khăn trong
khung cảnh các nước tự do, mà là thứ tuyên truyền một chiều, qui mô, toàn diện,
có thể sử dụng các quyền lợi kinh tế hỗ trợ cho nó như ở tại các quốc gia độc
tài: Nga xô, Trung cộng, Bắc Việt, Đức quốc xã v.v...
Và Hồ Chí Minh không phải chỉ
được thứ tuyên truyền ấy xóa cho mình cái chân tướng hiếu sát phi nhân. Ông ta
còn hóa thành thiên tài lỗi lạc dưới mắt nhiều người vì đã tổ chức giặc giã
trong một phần tư thế kỷ để giành nửa nước, trong khi tại khắp các nước Á Phi,
những lãnh tụ bất tài nhất cũng dần dần thu hồi được độc lập toàn vẹn cho quốc
gia họ với những tổn thất nhẹ hơn nhiều.
Ông ta còn hóa thành chính trị gia
khôn ngoan, thành “cha già dân tộc” dưới mắt nhiều người, trong khi ở các xứ
khác cùng lâm vào tình trạng lưỡng phân không có chính quyền nào nỡ giải quyết
tình trạng một cách vô hiệu mà bất nhân đến thế, trải bao nhiêu năm cứ nhất mực
khăng khăng chủ trương hết cuộc tàn sát này đến cuộc tàn sát nọ, không một mảy
may sờn lòng xúc cảm trước cảnh chết chóc thê thảm làm cho cả nhân loại đều ái
ngại.
Người như thế, không biết lòng dạ
ra sao, tim óc ra sao. Bảo rằng cùng trong một người, vừa chứa đầy những kế
hoạch xua ngay đồng bào mình vào chiến tranh liên tiếp vừa có chỗ cho tình yêu
thương đồng bào, thật không thể hiểu thấu.
Những lời trên đây không được nhã
nhặn. Quả thật không nhã nhặn. Và kẻ viết ra phải lấy làm ngượng về lời lẽ
mình. Nhưng khi mình là dân một nước đã trải qua bao nhiêu năm khói lửa, rồi lại
trông thấy trước mặt một viễn tượng đầy máu me, khi ấy nói về kẻ gây thảm họa
thật khó giữ lòng bình thản để nói lời tao nhã.
Có thể nào không giận? Ông ta bảo
phải đeo đuổi cuộc tàn sát nọ là vì nguyện vọng dân tộc? — Trời, dân tộc này ai
cũng xưng biết rõ vanh vách nguyện vọng, ai cũng đòi hành động nhân danh nguyện
vọng dân; có điều mỗi người nêu lên một nguyện vọng khác nhau, hoàn toàn khác
nhau, lắm khi mâu thuẫn nhau. Đâu là nguyện vọng đích thực, để hồi sau phân
giải.
Cái chắc chắn là dân tộc này không hề nằng nặc thiết tha với cộng sản đến
nỗi chịu chết năm ba thế hệ liên tiếp để rước kỳ được chế độ ấy về.
Vả ông ta
chừng ấy tuổi tác rồi, tai nghe mắt thấy đã nhiều, từng trải việc đời đã nhiều,
ông ta đâu còn ngây thơ mà quáng mắt vì những danh từ khoác lác, những hứa hẹn
hão huyền xa xôi của một chủ thuyết. Ông ta hẳn thừa rõ những gì đê tiện xấu xa
xảy ra phía sau các khẩu hiệu tuyên truyền, thừa rõ sống ở Đông Đức đâu bằng ở
Thụy-điển, Hòa-lan, thừa rõ con đường từ Hung-gia-lợi, Lỗ-ma-ni tiến đến dân
chủ và hạnh phúc, phải xa hơn con đường từ Thụy-sĩ, Phần-lan.
Mà dù ông ta có không nghĩ như
thế, có cho rằng Tiệp-khắc sung sướng và tự do hơn Thụy-điển đi chăng nữa, thì
sự hơn thua chút ít cũng không đến nỗi bắt phải đổi lấy bằng ba bốn cuộc chiến tranh
trong đôi ba mươi năm liền. Đáng lẽ ông ta để cho dân tộc nhỏ bé đã chịu quá
nhiều đọa đày vì ngoại thuộc này được yên thân để làm ăn, để sống cho ra sống
trong ít lâu.
Đã không vì nguyện vọng, quyền
lợi dân tộc, ông ta hành động vì lẽ đảng ông ta nhất định phải thắng các đảng
khác, vì lẽ người như ông ta không chịu thất bại nửa đường? — Chừng ấy tuổi tác
rồi, lẽ nào vì tranh hơn tranh thua, mà ông mạnh tay sát hại đồng bào không xót
thương đến thế? Người ta có thể vì tức khí, nóng giận mà tàn nhẫn, vung tay quá
đà. Đó là chuyện nhất thời. Còn ông, ông dai dẳng quá.
Vì cuồng tín chăng? Vì tự ái
chăng? Vì cái gì ông ta cũng đáng trách đáng giận quá.
Nhưng trong vấn đề này, trách móc
với giận hờn đâu có ăn thua gì. Một biểu thị tình cảm: thật vu vơ, vô hiệu. Ăn
thua chỉ có chiến lược thâm hiểm, hành động thích hợp. Lời nói — dù nhã hay bất
nhã — rồi sẽ bay đi theo mây gió. Chỉ có hành động mới sửa đổi được tình thế.
Mà hành động thì...
Thì rồi chắc chắn ở phía bên này
thoạt tiên ai nấy sẽ nhảy lên mừng hòa bình, rồi tiếp sau đó sẽ bất đồng cãi cọ
nhau ỏm tỏi về chuyện xây dựng, sẽ tranh nhau làm ăn tới tấp. Cùng lắm, lâu lâu
sẽ có người sáng suốt nhắc khẽ đến chiến tranh chính trị. Thế thôi.
Trong lúc ấy Bắc Việt lặng lẽ
điều khiển cán bộ của họ ở trong nầy âm thầm nhen nhóm cơ sở. Rồi đôi ba năm
sau, một ngày nào đó xét thấy thuận tiện, họ cho lệnh bùng nổ. Thế là chiến
tranh tái diễn.
Chiến tranh tái diễn: mọi người
trên thế giới đang sống an lành bỗng bị quấy rầy, bị ảnh hưởng, có một số bị
lôi cuốn vào chiến cuộc, lấy làm lo ngại, bực mình, quay đầu về cái xứ lắm
chuyện này nhìn bằng cái nhìn xoi mói, nghiêm khắc, trách vấn: “Rầy rà thật! Ra
cái xứ ấy tệ thật, tự xử không nên thân. Loạn lạc này đích thị do độc tài, tham
nhũng, bất công, kỳ thị tôn giáo v.v... khiến dân chúng bất mãn nổi lên chống
chế độ. Dung dưỡng những chính quyền, những chế độ như thế chỉ tổ tai hại
v.v...”
Chiến tranh ác liệt thêm: lương
tâm nhân loại bị xúc phạm, các nhà triết học gọi nhau họp ở Thụy-điển, các luật
gia rủ nhau họp ở Grenoble v.v... trịnh trọng suy tư, trịnh trọng bàn cãi, rồi
lên án, kết tội v.v... Trong khi ấy các lãnh tụ Hà Nội họ chỉ cần khéo che
miệng nín cười. Đó là điều quan trọng: họ không được phép cười. Họ không được
phép chế giễu lương tâm và trí thông minh của loài người. Họ không được vô lễ;
họ chỉ được tiếp tục đánh thật mạnh.
Cứ thế cho đến khi hoặc chúng ta
chịu không nổi những đòn đánh từ bên ngoài và những dằn xóc từ bên trong, chúng
ta bỏ cuộc và cộng sản tiến đến Cà Mau; hoặc bên phía chúng ta cùng đồng minh
có những kẻ thật chì, cộng sản liệu ăn không nổi, thế là lại điều đình và lại
xếp đặt một kế hoạch khác... Như vậy không biết đến bao giờ.
Còn ba mươi hai năm nữa, chúng ta
bước sang thế kỷ XXI. Nhiều người xem như bước sang một kỷ nguyên mới, một nền
văn minh mới: con người sẽ không chỉ biết có quả đất, nhiều quốc gia sẽ tiến
đến nền kinh tế kỹ nghệ hậu. Đó chưa hẳn là cực lạc, nhưng cũng là cái gì vượt
xa tình trạng hiện tại. Thiên hạ nô nức đua nhau tiến đến mặt trăng, đến kinh
tế kỹ nghệ hậu. Như thể cá vượt Vũ Môn.
Riêng dân tộc chúng ta, ba mươi
hai năm nữa e vẫn còn đánh nhau, nửa nước túm lấy nửa nước dìm nhau trong bể
máu. Các dân tộc, bất cứ da đen hay da đỏ, đều có thể nô nức, hy vọng ở thế kỷ
XXI. Riêng chúng ta, chúng ta chỉ còn có mỗi một điều để đón đợi: là hết chiến
cuộc này đến chiến cuộc khác, nếu Hà Nội không từ bỏ quyết tâm của họ. Và cho
đến bây giờ, họ chưa có dấu hiệu từ bỏ.
Hỡi các em bé của đồng bằng Nam
Việt xanh ngát bị bắt đưa đi, từng hàng từng lớp nối nhau dìu nhau ra núi rừng
Việt Bắc! Riêng về phần mình, các em đã chịu côi cút ngay từ lúc này; còn đất
nước thì sẽ vì những chuyến ra đi của các em mà lâm vào cảnh đau thương bất
tận. Tai họa hiện xảy đến cho các em cũng là tai họa về sau cho xứ sở. Đã sáu
tháng qua rồi. Dù người ta có thôi dài cổ ngóng về Ba-lê, để nghĩ cách cứu các
em, thì cũng đã muộn.
Nhưng đâu có ai chịu thôi ngóng
chờ? Và trong không khí thấp thỏm chờ đợi hòa bình, ngày ngày báo chí chỉ những
rập rình từng thoáng tin ngưng oanh tạc, tôi hướng về các em những ý nghĩ vô
cùng buồn thảm, đen tối.
Võ Phiến
10 – 1968
*Nhan đề bài này mượn từ một cuốn
sách của Phùng Khánh, dịch truyện The Catcher in the Rye của J.D.
Salinger. Sách Phùng Khánh do Thanh Hiên xuất bản năm 1967 tại Sài Gòn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét