Nguyễn Trung Chính
18-10-2012
Nhìn vào tình hình của Việt Nam, người ta có thể hiểu được tại
sao đại đa số quần chúng tỏ vẻ thờ ơ trước thời cuộc. Dân chúng Việt Nam không
hèn nhát cũng không thiếu tinh thần trách nhiệm như một số người đã nhận xét.
Nó chỉ đúng với những gì quan sát được trên bề mặt. Nhà cầm quyền độc tài
“khoái” cách nhìn này vì họ muốn mọi người tin là như vậy để tự từ bỏ hy vọng sẽ
có một cuộc cách mạng đổi mới đất nước.
Theo các nhà khoa học xã hội đã từng nghiên cứu các cuộc
cách mạng trên thế giới quần chúng có đông đảo xuống đường làm thành một biển
người đối kháng với bộ máy cầm quyền độc tài hay không sẽ tùy thuộc vào một yếu
tố duy nhất: cảm nhận của quần chúng về khả năng thành công của một cuộc cách mạng.
Cảm nhận đó của quần chúng lại tùy thuộc vào ảnh hưởng của những xung động lực
đến từ 3 tác nhân: nhà cầm quyền, lực lượng đối kháng, và quần chúng.
Về phía nhà cầm quyền độc tài chuyên chế thì lúc nào họ cũng (a) tỏ rõ thái độ
không bao giờ tự động rời bỏ hoặc chuyển giao quyền lực; (b) sẵn sàng sử dụng bộ
máy cầm quyền để đè bẹp các thế lực đối kháng; (c) ngăn chận thông tin đến từ
phía đối kháng; (d) ép nhẹm những thông tin bất lợi cho bộ máy cầm quyền; (e)
tuyên truyền ồ ạt với thông tin một chiều để thuyết phục quần chúng rằng nhà cầm
quyền đất nước rất được quần chúng tín nhiệm, rất có chính nghĩa và rất vững chắc;
(f) tung hỏa mù bằng cách đưa ra những sự kiện/ vấn đề nóng nhằm làm cho quần
chúng và những người đối kháng với bộ máy cầm quyền bị lạc đường, mất định hướng,
phân tán lực lượng, hoài nghi lẫn nhau, bị cuốn hút vào những hứa hẹn hay mục
tiêu nhảm nhí, có ảo tưởng rằng bộ máy cầm quyền sẽ tự sửa sai và làm tốt hơn;
(g) dựng lên một kẻ ngoại thù để khơi dậy lòng yêu nước, để răn đe là sẽ bị mất
nước nếu không hợp tác với nhà cầm quyền, hoặc để trấn áp với lý do vì an ninh
quốc gia.
Ở một mặt khác thì nhà cầm quyền độc tài lại rất bất an: (a) vì biết rằng đại
đa số quần chúng sẽ không bao giờ công khai ý nghĩ chống đối của mình để cho
nhà cầm quyền biết, bộ máy cầm quyền càng độc tài chuyên chế thì dân càng giỏi
che dấu, cho nên khó biết dân thực sự đang nghĩ gì và sẽ làm gì nếu có cơ hội;
(b) vì không biết quần chúng tin ai hơn, tin vào tiếng nói của nhà cầm quyền
hay tin vào tiếng nói của thành phần đối kháng; (c) vì không biết giữa “tâm trạng
của quần chúng” với “suy đoán của nhà cầm quyền về tâm trạng của quần chúng” có
khoảng cách bao xa và khoảng cách đó có đủ để kích nổ một cuộc cách mạng hay
không; (d) vì nếu có cuộc cách mạng nổ ra không biết là bộ máy cầm quyền có chịu
nỗi áp lực và có khả năng sống còn hay không; và (e) vì khi đã có một cuộc cách
mạng nổ ra thì nhà cầm quyền sẽ có hai sự chọn lựa là (e1) nhường nhịn và đáp ứng
phần nào yêu sách của quần chúng hoặc là (e2) thẳng tay đánh dẹp nhưng, khổ nạn
là, cả hai sự chọn lựa đều có khả năng làm cho quần chúng quyết tâm hơn trong
việc giải thể chế độ độc tài.
Về phía đối kháng với nhà cầm quyền thì họ (a) chủ tâm thu thập thông tin, nhất
là thông tin mật từ phía nội bộ nhà cầm quyền, nên có nhiều thông tin hơn quần
chúng; (b) biết rõ về bản chất, thực chất, và những vấn nạn của bộ máy cầm quyền
hơn là quần chúng; (c) cố gắng thuyết phục quần chúng rằng một cuộc cách mạng đổi
mới đất nước là cần thiết; (d) cố gắng thuyết phục quần chúng rằng một cuộc
cách mạng đổi mới sẽ có nhiều cơ hội thành công; và (e) kêu gọi quần chúng hành
động. Những người đối kháng chỉ ra mặt khi (1) tin rằng quần chúng sẽ nghe theo
và (2) tin rằng có thể giật sập được bộ máy cầm quyền.
Khả năng quần chúng có nghe theo lời kêu gọi hay không tùy thuộc vào uy tín của
lực lượng đối kháng. Ở trong môi trường dễ xuống đường thì lời kêu gọi của lực
lượng đối kháng khó thuyết phục quần chúng rằng nhà cầm quyền đang yếu thế. Tuy
nhiên, môi trường như vậy sẽ dễ khuyến khích lực lượng đối kháng xuống đường
hơn vì ít nguy hiểm hơn. Ngược lại ở trong môi trường càng khó xuống đường chừng
nào thì lời kêu gọi của lực lượng đối kháng càng có uy tín đối với quần chúng.
Khả năng trừng trị của nhà cầm quyền càng mạnh chừng nào thì sự kêu gọi của lực
lượng đối kháng càng có uy tín chừng ấy đối với quần chúng, vì quần chúng tin rằng
đó là dấu hiệu cho thấy nhà cầm quyền đã suy yếu rồi nên những nhà đối kháng mới
dám ra mặt. Dấu hiệu “nhà cầm quyền đã suy yếu” khuyến khích sự tham dự của quần
chúng.
Thông thường thì thành phần đối kháng với nhà cầm quyền sẽ “trốn kín” cho đến
khi họ thấy có cơ hội thành công mới ra mặt đối kháng và kêu gọi quần chúng xuống
đường làm một cuộc cách mạng đổi mới. Đặc biệt là những người đối kháng nằm bên
trong hệ thống cầm quyền, những người một thời đã từng là công thần cao cấp của
chế độ. Họ có rất nhiều thông tin về sự rạn nứt bên trong và thấy rõ cái bệ rạc
của hệ thống cầm quyền. Sự đánh giá của họ về tình hình sẽ chính xác hơn là những
người quan sát từ bên ngoài. Theo đó, ước tính của họ về thời điểm hành động
cũng đáng tin cậy hơn. Vì thành phần đối kháng với nhà cầm quyền độc tài luôn bị
đe dọa bởi hiểm họa ở cấp độ cao nhất cho nên họ phải “trốn kín” là điều đương
nhiên. Nhưng một khi họ đã dám ra mặt chống đối nhà cầm quyền thì quần chúng có
thể nhận ra là thời cơ đã tới và rất có thể sẽ đáp ứng lời kêu gọi xuống đường
làm một cuộc cách mạng đổi mới đất nước.
Về phía quần chúng, họ tiếp cận thông tin từ cả hai phía, phía nhà cầm quyền và
phía đối kháng, rồi dùng thông tin đó để ước đoán tình hình và làm quyết định.
Thông tin từ phía đối kháng thì cố gắng thuyết phục quần chúng đứng lên chống
nhà cầm quyền còn phía nhà cầm quyền thì làm ngược lại. Dưới một bộ máy cai trị
độc tài, quần chúng ít được tiếp cận với thông tin trung thực và càng khó tiếp
cận với thông tin đối kháng. Do đó, kết quả là đại đa số quần chúng sẽ có
khuynh hướng thờ ơ.
Nếu như phía đối kháng có giỏi đưa thông tin đến quần chúng, nếu như quần chúng
có thể liên tục tiếp cận thông tin đối kháng, và nếu như thông tin đối kháng
thuyết phục được quần chúng rằng một cuộc cách mạng đổi mới là cần thiết... thì
quần chúng sẽ ấp ủ giấc mơ đổi mới và giữ kín trong lòng chờ cơ hội. Nhưng quần
chúng sẽ không hành động nếu như họ không nhìn thấy khả năng thành công. Họ phải
nhìn thấy dấu hiệu “nội bộ nhà cầm quyền đang bị rạn nứt, rớt vào khủng hoảng,
sắp bị sụp đổ.” Họ phải nhìn thấy “chính quyền đã suy yếu.” Họ phải nhìn thấy
“có một lực lượng đối kháng có thực lực” đang đứng sau lưng quần chúng vận động
lật đổ nhà cầm quyền. Quần chúng có được những cái “thấy” như vậy thì mới hy vọng
họ chịu xuống đường, mới dám biến giấc mơ đổi mới đã ấp ủ và giữ kín trong lòng
thành hành động cụ thể.
Sự thật là: quần chúng không biết được sức mạnh thực sự của nhà cầm quyền, vì
thông tin này chỉ đến từ biến cố thật. Hay nói một cách khác là, quần chúng chỉ
thực sự biết nhà cầm quyền có sức mạnh tới đâu sau khi đã có một cách mạng nổ
ra. Sự thật là: nhà cầm quyền độc tài cũng không biết được sức mạnh thực sự của
quần chúng, vì thông tin chỉ đến từ biến cố thật. Hay nói một cách khác là nhà
cầm quyền thực sự biết quần chúng có đủ sức mạnh để giải thể đổ chế độ độc tài
hay không chỉ sau khi đã có một cách mạng nổ ra. Biến cố thật là cái giá rất
cao, cho cả hai phía, để có được thông tin này. Vắng mặt “biến cố thật” để sự
thật tự phơi bày thì chỉ còn lại “sự thật theo cảm nhận” tác động lên cán cân
chính trị. Cán cân nghiêng về phía nhà cầm quyền độc tài hay nghiêng về phía lực
lượng đối kháng sẽ tùy thuộc vào sự cảm nhận của quần chúng. Do đó, tận dụng
thông tin để gây ấn tượng “như thật” là một cuộc chiến tiền biến cố. Muốn quần
chúng xuống đường, phía đối kháng phải thắng trận chiến thông tin tiền biến cố,
phải tạo ấn tượng “như thật.”
Một cuộc cách mạng chỉ có thể xảy ra khi có đủ hai điều kiện: (1) quần chúng phải
tin là cần phải có một cuộc cách mạng đổi mới và đáng để tham gia và (2) phải
có một lực lượng đối kháng đứng ra điều hợp, thúc đẩy và hướng dẫn cuộc cách mạng.
Không có niềm tin vào một cuộc cách mạng đổi mới và không có một lực lượng đối
kháng làm dung môi cho một cuộc cách mạng thì quần chúng khó có thể tự phát
thành biển người đối kháng.
Những cuộc cách mạng mới đây được báo chí nhận xét là những cuộc cách mạng tự
phát và không có lãnh tụ. Cụm chữ “một cuộc cách mạng tự phát” không đồng nghĩa
với “không có một lực lượng đối kháng làm dung môi cho cuộc cách mạng” và “cuộc
cách mạng không lãnh tụ” không đồng nghĩa với “không có một lực lượng đối kháng
đứng trong bóng tối hay đứng sau lưng quần chúng để vạch kế hoạch và điều hợp
chương trình hành động.” Điều này có nghĩa là, nói thế nào thì nói nhưng trên
thực tế thì vai trò của một lực lượng đối kháng trong tiến trình dẫn đến một cuộc
cách mạng khẳng định là không thể thiếu.
Nhìn vào tình hình của Việt Nam, người ta có thể hiểu được tại sao đại đa số quần
chúng tỏ vẻ thờ ơ trước thời cuộc. Dân chúng Việt Nam không hèn nhát cũng không
thiếu tinh thần trách nhiệm như một số người đã nhận xét. Nó chỉ đúng với những
gì quan sát được trên bề mặt. Nhà cầm quyền độc tài “khoái” cách nhìn này vì họ
muốn mọi người tin là như vậy để tự từ bỏ hy vọng sẽ có một cuộc cách mạng đổi
mới đất nước.
Thật ra, sự thờ ơ của quần chúng trong một đất nước đang nằm dưới sự khống chế
của một bộ máy độc tài toàn trị cho người ta thấy được hai vấn đề cực kỳ quan
trọng, có thể nói đó là hai điều kiện đang làm “đông lạnh” sức mạnh của quần
chúng. Đó là (1) đại đa số quần chúng chưa tiếp cận được hoặc chưa tiếp cận đủ
thông tin từ phía đối đối kháng, do đó, chưa cảm nhận được sự cần thiết của một
cuộc cách mạng đổi mới đất nước; hoặc/và (2) đại đa số quần chúng chưa thấy những
dấu hiệu và do đó chưa cảm nhận được khả năng thành công của một cuộc cách mạng.
Điều kiện thứ nhất tuy là đang làm đông lạnh quần chúng nhưng, sau khi đã nhìn
thấy, thì chính nó lại là một cơ hội lớn để cho lực lượng đối kháng hoạch định
một chiến sách khác tích cực hơn để “làm tan đông lạnh” thúc đẩy một cuộc cách
mạng đổi mới đất nước. Chiến sách đó có thể là tạo điều kiện để quần chúng
tiếp cận thông tin đối kháng một cách sâu rộng hơn và liên tục bằng cách tích cực
ĐẨY thông tin đến tay quần chúng thay vì chờ quần chúng tự KÉO thông tin một
cách nhỏ giọt từ những nguồn không được tự do tiếp cận như tình trạng hiện tại.
Chỉ trông cậy vào những cơ quan truyền thông để thực hiện chiến sách này thì
chưa đủ. Muốn làm được công việc này cần có sự sáng tạo, có phương án tốt và có
sự tham gia đông đảo của cá nhân. Và cá nhân không phải chỉ đơn thuần là tham
gia truyền tải thông tin mà là tham gia vào cuộc chiến thông tin để giải phóng
đất nước khỏi ách độc tài toàn trị. Mỗi một cá nhân đủ sức để biến một hạch
nhân thành lực lượng lớn. Một que diêm không cho đủ lửa nhưng hàng triệu que
diêm có thể làm tan cả Bắc Băng Dương. Phải thắng “cuộc chiến thông tin tiền biến
cố” thì lực lượng đối kháng mới có hy vọng động viên được quần chúng xuống đường
làm một cuộc cách mạng đổi mới đất nước.
Một chiến sách tích cực hơn cho một cuộc chiến thông tin tiền biến cố thôi cũng
chưa đủ. Cần phải có một lực lượng đối kháng có thực lực. Không có một lực lượng
đối kháng đủ thực lực đứng ra vận động, quần chúng khó có thể cảm nhận được khả
năng thành công của một cuộc cách mạng. Hai học giả Jack A. Goldstone và John
Hazel cũng đồng ý về điểm này. Hai ông nói, trong bài viết Understanding the
Revolutions of 2011, một cuộc cách mạng có thể thành công cần phải hội đủ một số
yếu tố. Thứ nhất, quần chúng phải nhìn thấy chính quyền là một đại họa cho
tương lai của đất nước. Thứ hai, công thần cao cấp của chế độ, đặc biệt là
trong quân đội, đang bất mãn hoặc không còn muốn chống đỡ cho chế độ nữa. Thứ
ba, một đám đông quần chúng kết hợp diện rộng (tham dự của mọi giai tầng, mọi
tôn giáo, mọi sắc tộc) phải được “ai đó” động viên để xuống đường đối kháng với
chính quyền. Và, sau cùng là những quyền lực quốc tế sẽ không nhúng tay trợ
giúp cho nhà cầm quyền độc tài (nếu được họ đứng ra bênh vực quần chúng thì
càng tốt).
Với hiện tình của đất nước, thành lập một liên minh tôn giáo và một công đoàn
lao động đại diện cho công nhân có lẽ là con đường nhanh nhất để có được “ai
đó” đứng ra vận động quần chúng. Một liên minh tôn giáo và một công đoàn lao động
cũng sẽ cho lợi thế và cơ hội nhiều nhất trong vai trò là lực lượng đối kháng để
quần chúng cảm nhận được khả năng thành công của một cuộc cách mạng đấu tranh bất
bạo động. Một công đoàn lao động cần có sự tham gia của các luật sư và chuyên
gia am tường về nhân sự và luật lao động, đang làm việc trong quốc nội và tại hải
ngoại, để hướng dẫn công nhân đấu tranh. Một liên minh tôn giáo đã từng được
hình thành trong quá khứ đấu tranh của đất nước. Hình thành một liên minh tôn
giáo cho nhu cầu khẩn thiết của đất nước ngày hôm nay không phải là một khái niệm
lạ và cũng không phải là việc khó thực hiện.
So voi Mien Dien : VN thieu mot mau so chung Tongiao, thieu them mot lanh tu nhu ba SUU KI.
Trả lờiXóaTongiao chính là Phatgiao thì lỏng lẻo, Phatgiao manh nhat là Phatgiao mien Trung thi thuong theo CS va chong AuMy vì AuMy là ThienChuagiao.
Do do VN chang có khoi nao lam noi cuoc Cach Mang-va trong xu CS thi chua thay co cuoc Noi day nao thanh cong.