30-10-2012
Bài hát Việt Nam tôi đâu của Việt Khang là tiếng chuông đánh thức hồn thiêng sông núi đang ngủ quên trong lòng người. Ngọn đuốc Việt Khang thắp lên soi sáng con đường đi về phía trước. Các thế hệ Việt Nam từ lúc chào đời đã mang tinh hoa tinh huyết của dòng giống Lạc Long, nhưng tinh hoa tinh huyết đó phải được mài dũa thành vũ khí để bảo vệ đất nước hôm nay.
Cứu Việt Khang, do đó, không phải chỉ cứu một thanh niên, một nhạc sĩ đang bị tù đày nhưng hơn thế nữa, tự cứu chính mình và từ đó đứng lên cứu dân tộc mình.
Tôi tự hỏi Việt
Nam đang nằm ở đâu sau dòng nước xanh xa thẳm kia. Và cùng lúc tôi chợt nghĩ đến
bài hát “Việt Nam tôi đâu” của Việt Khang đang trở thành khẩu hiệu cho tuổi trẻ
trong vào ngoài nước.
Việt Nam tôi đâu?
Câu hỏi của tôi vang lên theo từng đợt sóng dội vào bờ cát
Chennai nhưng tuyệt nhiên không có tiếng trả lời. Một người đứng trên đất khách
và một kẻ đang ở trong tù có cùng một câu hỏi.
Thì ra, không phải người đi xa mới thấm thía nỗi đau của kẻ
thiếu quê hương mà cả những người đang sống trên đất nước vẫn đi tìm kiếm quê
hương. Và quê hương chúng tôi đang tìm kiếm, không chỉ là núi đồi, sông biển,
ruộng vườn, cây trái nhưng là một quê hương có khối óc tự do, có tâm hồn nhân bản,
có trái tim dân chủ, có đôi chân tiến về phía trước và đôi tay kiến tạo một xã
hội thanh bình thịnh vượng cho mãi mãi Việt Nam.
Thời gian tôi sống ở xứ người dài hơn so với thời gian sống ở
Việt Nam và đã nhiều năm làm công dân Mỹ nhưng ngoại trừ việc phải điền vào những
giấy tờ cần thiết, khi được hỏi tôi là ai, tôi luôn trả lời tôi là người Việt
Nam. Một phần, tôi cảm thấy chút gì đó ngượng ngùng khi nhận mình là người Mỹ
và một phần khác tôi không thể từ chối đất nước đã sinh ra tôi.
Tôi cám ơn nước Mỹ đã cứu vớt tôi từ biển cả, cho tôi chiếc
nệm ấm, giúp tôi có cơ hội học hành, dang rộng đôi tay chào đón khi tôi bước xuống
phi trường lần đầu trong một đêm đông lạnh, nhưng suy nghĩ và phân tích cho
cùng, tôi vẫn là người Việt Nam. Tôi nghĩ về nước Mỹ với một trách nhiệm công
dân mang tính pháp lý hơn là một người con mang trên vai nghĩa vụ tinh thần.
Tôi không biết kiếp sau, nếu có, tôi là gì nhưng kiếp này tôi là người Việt
Nam. Tôi dặn lòng như thế.
Việt Nam tôi đâu?
Câu hỏi có vẻ ngô nghê nhưng không phải dễ trả lời. Nếu ai hỏi,
thật khó cho tôi gỉải thích đủ và đúng trong một câu ngắn gọn. Việt Nam của tôi
không phải là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và dĩ nhiên không phải là chế
độ cai trị con người bằng nhà tù và sân bắn như hiện nay.
Nhìn chiếc ghe hư nằm trơ trọi trên bờ biển Chennai, tôi chợt
nhớ đã có một thời, nhiều thuyền nhân Việt Nam từng hỏi “Việt Nam tôi đâu” và
đã đồng ý với nhau rằng Việt Nam đã chết như trong bài hát Một lần miên viễn
xót xa quen thuộc của nhạc sĩ Nguyễn Đức Thành:
Giờ đây, mỗi đứa con lạc loài mỗi nẽo
Đứa London, đứa Paris, đứa đèo heo gió hút
Gặp nhau từng hàng lệ xót xa, buông những câu chào
Đôi ba sinh ngữ, Bonjour, Au revoir, Hello, Good bye
Con gục đầu chua xót đắng cay.
Thưa me, thưa me, thưa me, quê hương mình
Đã chết rồi, mẹ ơi, mẹ ơi, mẹ Việt Nam ơi …”
Vì “quê hương mình đã chết rồi” nên hàng triệu đứa con của mẹ phải bỏ ra đi khắp
chân trời góc biển.
Có người không đồng ý và cho rằng quê hương vẫn còn đó, núi
sông vẫn còn đó, chết chóc gì đâu mà than vãn. Việt Nam là quê hương của tất cả
chúng ta. Không có quê hương của người quốc gia hay quê hương của người cộng sản.
Không có quê hương tư sản hay quê hương vô sản. Quê hương vẫn còn có đó và sẽ
mãi mãi còn đó cho ngàn đời sau.
Đúng hay sai, còn hay mất, sống hay chết tùy theo cách hiểu
và cách nhìn về đất nước.
Với tôi và có thể với nhiều đồng bào cùng cảnh ngộ, quê
hương không chỉ là những vật vô tri, vô giác nhưng phải là một quê hương sống động
và có tâm hồn. Sau 30 tháng Tư năm 1975, quê hương Việt Nam đã mất tâm hồn và
thậm chí trở thành tù ngục. Việt Nam, nơi con người bị đối xử như con vật. Việt
Nam, nơi con người không có quyền nói những điều họ muốn nói, hát những bài hát
họ yêu thích, viết những dòng thơ họ muốn viết. Hàng triệu người Việt Nam đã
không còn chọn lựa nào khác hơn là ra đi.
Hành trình của hai hơn hai triệu người Việt Nam từ sau tháng
Tư năm 1975 không chỉ được ghi bằng những bước chân rỉ máu trên những chặng đường
đầy đau thương thử thách nhưng còn qua những bài hát được viết như tiếng thét
gào của đoàn lưu dân trên sa mạc trần gian.
Mai tôi đi, tôi đi vào sương đen
Sương rất độc tẩm vào ngươì nỗi chết
Quê hương ta sống chia dòng vĩnh biệt
Chảy về đâu những nước mắt đưa tin.
(Mai tôi đi, nhạc Nguyễn Đình Toàn)
Những ngày tháng lênh đênh đó, ai không dừng tay dù đang làm
việc gì khi nghe Người di tản buồn của nhạc sĩ Nam Lộc, Sài Gòn
niềm nhớ không tên của nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn hay Đêm nhớ về Sài
Gòn của cố nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng cất lên từ giọng ca Khánh Ly?
Có ai không chợt nghe lòng mình chùng xuống khi chị Nguyệt
Ánh cất lên những lời não nùng trong Một chút quà cho quê hương của
nhạc sĩ Việt Dũng?
Có ai không nghe như có tiếng mưa rơi dù đang đứng giữa phố
Bolsa nắng gắt khi nghe giọng Ngọc Lan kể lể trong Khóc một dòng
sông của nhạc sĩ Đức Huy?
Và nhiều nữa, Phạm Duy với 1954 Cha bỏ quê 1975 con bỏ
Nước, Nhật Ngân với Anh giải phóng tôi hay tôi giải phóng anh, Châu
Đình An với Đêm chôn dầu vượt biển, Phan Văn Hưng với Ai trở về xứ Việt,
Tô Huyền Vân với Quê hương bỏ lại v.v..
Và tất cả đã đóng góp phần mình viết nên bài trường ca đầy
bi tráng của một bộ phận dân tộc Việt Nam sau mùa bão lửa 1975. Từ Camp
Pendleton đến Leamsing, Palawan, Pulau Bidong, Sungai Besi, Bataan, White Head,
Panat Nikhom, Galang, những tên tuổi địa danh đi vào lịch sử Việt Nam qua cái
chết tủi buồn của mẹ, qua giọt nước mắt của em, qua tiếng gào thống thiết của
anh vọng lên giữa Thái Bình Dương bát ngát.
Thời gian cuốn đi bao vết tích, tạo ra bao đổi thay của thời
thế và con người. Bây giờ, một số nhạc sĩ đã qua đời, một số đang qua đời trong
cách khác và một số vẫn tiếp tục đi trên con đường lý tưởng dù tuổi tác đã già.
Nhưng dù sống hay chết, bỏ đi hay ở lại, những bài hát của họ đánh dấu một giai
đoạn lịch sử nhiều bi tráng của đất nước và góp phần xây lên tấm bia đá thuyền
nhân bi thương ngàn đời trong lịch sử Việt Nam.
Và những người còn ở lại, phải chăng họ dễ dàng trả lời “Việt
Nam tôi đâu?”
Không. Tôi không nghĩ thế. Nếu ai hỏi những người thuộc thế
hệ đã trải qua giai đoạn cùng cực những năm sau 1975 còn sống hôm nay có thể họ
cũng sẽ trả lời trái tim Việt Nam có một thời ngừng đập. Thời gian dừng lại.
Không gian đóng kín bịt bùng. Việt Nam đã chết ngay cả trong lòng những người
đang sống giữa lòng đất nước. Một triệu dân Sài Gòn dắt nhau sống lây lất trong
các vùng kinh tế mới. Nhiều trăm ngàn sĩ quan viên chức miền nam bị đầy đọa khắp
các trại tù. Con người Việt Nam sau 1975 vẫn phải sống, phải thở, phải tìm mọi
cách để sinh tồn trong hoàn cảnh nghiệt ngã chứ không phải là những con người
an vui hạnh phúc như phần lớn của sáu tỉ người còn lại trên thế giới. Chính ông
Võ Văn Kiệt khi còn sống đã phải thừa nhận niềm vui của đảng Cộng Sản là nỗi buồn
của nhiều triệu người dân Viêt.
Dân tộc nào cũng có thể phải trải qua những chặng đường đau
thương gian khổ nhưng Việt Nam có thể nói là một trong số rất ít quốc gia mà sự
chịu đựng kéo dài qua nhiều thế hệ. Hơn nửa đời người trôi qua, tiếng thét vẫn
còn vang vọng qua bài hát của nhạc sĩ Việt Khang:
Viêt Nam ơi
Thời gian quá nửa đời người
Và ta đã tỏ tường rồi
Ôi cuộc đời ngày sau tàn lửa khói
Mẹ Việt Nam đau từng cơn xót dạ nhìn đời
Người lầm than đói khổ nghèo nàn
Kẻ quyền uy giàu sang dối gian.
Sau 36 năm, Việt Nam chẳng những không bước thêm một bước
nào; trái lại, về kinh tế, chính trị, so với đà tiến nhân loại, đã lùi xa hơn
vào quá khứ, và văn hóa đạo đức đang trở về với thời sơ khai nô lệ, nghĩa là thời
kỳ mọi của cải đều có thể mua bán, trao đổi, kể cả mua bán, trao đổi chính con người.
Người mẹ đang từng cơn xót dạ nhìn đời mà Việt Khang gặp hôm nay không khác gì
người mẹ mà tôi gặp đi bán máu ngoài nhà thương Chợ Rẫy mấy chục năm trước. Nếu
ai hỏi Việt Nam của mẹ ở đâu, chắc chắn mẹ sẽ chỉ ra những nấm mồ vô chủ. Những
bầy em đói khổ nghèo nàn mà Việt Khang mô tả hôm nay cũng không khác gì đám trẻ
tôi đã gặp ở vùng kinh tế mới Đồng Xoài ba mươi lăm năm trước. Nếu ai hỏi Việt
Nam của các em đâu, các em sẽ chỉ ra những vỉa hè bụi bặm, những góc phố tối
tăm. Nhưng hiểm họa đất nước đang phải đương đầu không chỉ là độc tài, tham
nhũng mà còn là đại họa mất nước.
Giờ đây Việt Nam còn hay đã mất
Mà giặc tàu ngang tàng trên quê hương ta
Hoàng Trường Sa, đã bao người dân vô tội
Chết ngậm ngùi vì tay súng giặc tàu
Là một người con dân Việt Nam
Lòng nào làm ngơ trước ngoại xâm
Người người cùng nhau đứng lên đáp lời sông núi
Từng đoàn người đi chẳng nệ chi
Già trẻ gái trai giơ cao tay
Chống quân xâm lược
Chống quân nhu nhược
Bán nước Việt Nam
Việt Nam tôi đâu
Việt Nam tôi đâu
Chúng ta đọc quá nhiều, nghe quá nhiều, hãnh diện quá nhiều
về lịch sử hào nhùng bốn ngàn năm giữ nước. Vâng, nhưng đó là chỉ là những hào
quang của quá khứ, là những thành tựu của tổ tiên, không phải của chính chúng
ta. Những bài học thuộc lòng về một quá khứ hào hùng của dân tộc không thể giúp
lau khô đi dòng nước mắt hôm nay:
Kính thưa thầy đây bài thuộc lòng của con
Tổ quốc Việt Nam bốn ngàn năm văn hiến
Một trăm năm Pháp thuộc
hai mươi năm đọa đày
Làm sao con thuộc được truyện Kiều Nguyễn Du.
Kính thưa thầy đây là quyển vở của con
suốt một năm không hề có chữ
con để dành ép khô những giòng nước mắt
của cha con, của mẹ con, của chị con, và của …chính con.
(Bài học của con, nhạc Phan Ni Tấn)
Lịch sử không phải là một ngôi miếu để thờ cúng nhưng là một
đời sống luôn đổi mới. Truyền thống chỉ là một thói quen lỗi thời nếu truyền thống
không được hiện đại hóa. Angkor Wat, Angkor Thom nguy nga, đồ sộ nhưng không cứu
được một phần tư dân tộc Khờ Me khỏi bàn tay Pol Pot. Tương tự, Ấn Độ, một dân
tộc có nền văn minh lâu đời nhất nhân loại và trải qua các thời đại hoàng kim từ
Ashoka đến Gupta, cũng đã chịu đựng hàng loạt ngoại xâm từ Mông Cổ, Hồi Giáo và
thực dân Anh kéo dài suốt 600 năm.
Việt Nam cũng thế. Nếu chỉ biết tôn vinh quá khứ và làm ngơ
trước hiểm họa Trung Quốc hôm nay, rồi lịch sử dân tộc với những chiến công hiển
hách của các thời Ngô, Đinh, Lý, Trần cũng sẽ chỉ là những tấm bia trong một
ngôi đền cổ. Hãy tưởng tượng, nếu tất cả chúng ta đều im lặng, làm ngơ, chịu nhục
trước hiểm họa mất nước, rồi bốn ngàn năm nữa, những đứa trẻ dòng Việt tộc, đi
ngang qua di tích đền Hùng, sẽ căm hận biết bao khi nghĩ về tổ tiên nhu nhược của
chúng vào bốn ngàn năm trước đó.
Đừng để lại cho các thế hệ Việt Nam tương lai một ngôi đền
mà ngay hôm nay hãy xây cho họ một căn nhà Việt Nam Mới tự do, dân chủ, công bằng,
bác ái.
Bài hát Việt Nam tôi đâu của Việt Khang là tiếng chuông đánh
thức hồn thiêng sông núi đang ngủ quên trong lòng người. Ngọn đuốc Việt Khang
thắp lên soi sáng con đường đi về phía trước. Các thế hệ Việt Nam từ lúc chào đời
đã mang tinh hoa tinh huyết của dòng giống Lạc Long, nhưng tinh hoa tinh huyết
đó phải được mài dũa thành vũ khí để bảo vệ đất nước hôm nay. Cứu Việt Khang,
do đó, không phải chỉ cứu một thanh niên, một nhạc sĩ đang bị tù đày nhưng hơn
thế nữa, tự cứu chính mình và từ đó đứng lên cứu dân tộc mình.
Trần Trung Đạo
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét