Tháng 7-2008
Bốn mươi năm trước, vì giới hạn về tài liệu tham khảo, nếu có người nhận xét ông Hồ Chí Minh, ông Trường Chinh, ông Lê Duẩn về mặt đạo đức tốt hơn các ông Tổng thống miền Nam có thể còn thông cảm, nhưng sau 30 năm với tất cả tài liệu đã được tiết lộ, Cải cách Ruộng đất, Nhân văn – Giai phẩm, vụ án xét lại, Tổng công kích Mậu Thân, chuyên chính vô sản, độc tài đảng trị, mà có người sùng bái các lãnh tụ cộng sản trên thì thật là một niềm tin mù quáng.
(Vài suy nghĩ sau khi đọc tiểu luận
“Nhà văn Việt Nam: Đổi mới và Hội nhập” của nhà văn Tô Nhuận Vỹ và tự truyện Lạc
đường của nhà văn Đào Hiếu)
Tháng 2 năm 2007, trên diễn đàn
talawas, tôi có viết một bài để góp ý với ông Võ Văn Kiệt về “hòa giải dân tộc
và khép lại quá khứ”. Thời gian ngắn sau đó, tôi nhận một email từ Việt Nam
chuyển lời của ông Võ Văn Kiệt, rằng nhiều điểm góp ý của tôi có thể tranh luận
nhưng cũng rất nhiều điểm ông thừa nhận là rất có lý.
Ông cũng dặn với người
đưa tin nếu tôi có dịp về thì đưa tôi đến nhà chơi để trao đổi với ông. Tôi trả
lời, cũng qua trung gian người đưa tin, cám ơn ông về việc mời đến nhà nhưng
quan trọng hơn tôi mong ông đáp lại những điều tôi đã nêu ra trong bài viết, nhất
là những điểm ông cho rằng có thể tranh luận được, và phổ biến rộng rãi cho mọi
người cùng đọc.
Chuyện đất nước là chuyện chung chứ không phải là chuyện giữa ông
và tôi. Các thế hệ Việt Nam mai sau trưởng thành từ những bài học, những kinh
nghiệm của các thế hệ đi trước để lại. Không có kinh nghiệm lịch sử nào là nên
bỏ qua và không có bài học lịch sử nào mà không đáng học. Có lần tôi đọc đâu
đó, ông Võ Văn Kiệt dự tính viết một cuốn sách, tôi rất mừng và âm thầm chờ đợi
một tác phẩm hay một hồi ký của ông.
Tôi không kỳ vọng ở hồi ký của
ông Võ Văn Kiệt một con số đúng về bao nhiêu sĩ quan công chức chế độ Việt Nam
Cộng hòa bị ông và Đảng của ông đày ra các vùng rừng sâu nước độc Tiên Lãnh,
Hàm Tân, Hoàng Liên Sơn, Thanh Phong, Thanh Hóa.
Tôi không kỳ vọng ở hồi ký của
ông một con số bao nhiêu người dân Sài Gòn bị ông và Đảng của ông đuổi đi khắp
các vùng kinh tế mới miền Đông, miền Tây Nam Bộ. Tôi không kỳ vọng qua hồi ký
ông sẽ công bố đầy đủ danh sách những người bị Ủy ban Quân quản, do ông làm bí
thư Đảng ủy đặc biệt, xếp vào thành phần tư sản mại bản; của cải, nhà cửa bị tịch
thu, cha mẹ phải vào tù, con cái phải sống lang thang đầu đường cuối chợ.
Tôi
không kỳ vọng qua hồi ký ông sẽ giải thích nguyên nhân nào khiến hàng triệu người
Việt đã bất chấp sóng to gió lớn để vượt biển tìm một con đường sống trong muôn
ngàn đường chết. Tôi cũng không kỳ vọng qua hồi ký ông sẽ chính thức xin lỗi
cùng nhân dân miền Nam nói riêng và cả nước nói chung, những sai lầm của Đảng
do ông trực tiếp lãnh đạo đã gây ra.
Và như tôi đã đọc tiểu sử, quá trình đấu
tranh của ông và những mất mát của riêng bản thân ông, tôi cũng không nghĩ ông
Võ Văn Kiệt sẽ thành lập một đảng hay một cánh đối lập, công khai thách thức vị
trí lãnh đạo của Đảng Cộng sản để lót đường cho một cuộc vận động toàn dân,
toàn diện nhằm tiến đến một xã hội mới, dân chủ, nhân bản và thịnh vượng như một
số người đã bàn tán trước đây.
Ông Võ Văn Kiệt từ năm 1938 cho đến
cuối đời vẫn là người cộng sản. Khác chăng so với những lãnh đạo cộng sản cùng
thời, ông Võ Văn Kiệt sinh ra từ miền cây trái Vĩnh Long, phần lớn quãng đời đấu
tranh của ông cũng từ ruộng đồng, sông nước miền Nam, gần gũi với nhân dân miền
Nam và trong những ngày cuối đời nhìn lại đã có lúc chạnh lòng buông những câu
nói như những lời an ủi muộn màng, rải rác đó đây trên vài cơ quan ngôn luận,
trong những buổi nhậu, dành cho những người đã chịu đựng dưới bàn tay ông.
Dù sao tôi cũng mong ông viết, bởi
vì hơn ai hết, ông Võ Văn Kiệt là người có thẩm quyền để viết. Giá trị trong
tác phẩm của ông Võ Văn Kiệt không hẳn ở chỗ là sự thật mà là sự kiện, dù được
nêu ra để biện hộ cho những sai trái của chính ông.
Những Giọt nước trong biển
cả của Hoàng Văn Hoan và Hồi ký của một Việt cộng của Trương Như Tảng vẫn có
giá trị sự kiện nhất định và là những tác phẩm tham khảo cần thiết cho các sử
gia và thế hệ mai sau.
Hôm nay, ông Võ Văn Kiệt đã qua đời. Ông ra đi mang theo
nhiều chi tiết quan trọng của những năm khó khăn nhất trong lịch sử dân tộc thời
cận đại. Phần lớn những lời phân ưu dành cho ông đều chấm dứt bằng câu cầu mong
hương linh ông được yên nghỉ, nhưng làm sao hương linh ông có thể yên nghỉ được
khi vẫn còn nợ thế gian này một món nợ mà ông chưa trả hết.
Những chịu đựng của dân tộc Việt
Nam nói chung và nhân dân miền Nam nói riêng dưới bàn tay ông Võ Văn Kiệt và Đảng
của ông trong những năm ngay sau 1975, sẽ mãi mãi sẽ là một vết thương hằn sâu
trong lịch sử.
Máu và nước mắt của nhân dân miền Nam đổ xuống trong các trại
tù, trên các khu kinh tế mới, dọc các vỉa hè Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn đã đóng
thành băng trong ký ức của giống nòi. Không ai trách ông Võ Văn Kiệt tại sao bảy
mươi năm trước đã tham gia Đảng Cộng sản nhưng chắc chắn các thế hệ Việt Nam
mai sau sẽ trách ông đã không có những câu trả lời cho những thảm trạng mà đất
nước đã trải qua trong suốt 22 năm dài (1975 – 1997), thời gian ông đã đóng vai
trò quan trọng trong chính trị Việt Nam.
Ông Võ Văn Kiệt, giống như hầu hết
những người cộng sản trong thế hệ Tân Trào, Pác Bó đã không làm được, đã không
trả lời được những câu hỏi của phiên tòa lịch sử, nhưng tôi tin các thế hệ Viêt
Nam tham gia Đảng Cộng sản sau ông, thế hệ “chống Mỹ cứu nước”, thế hệ “Tổng
công kích Tết Mậu Thân” với một số khá đông vẫn còn đang sống, có thể trả lời
và thậm chí phải trả lời trước khi các anh các chị xuôi tay nhắm mắt ra đi.
Điều đáng mừng là trong thời gian
qua, một số hồi ký như Tôi bị bắt của nhà thơ Trần Vàng Sao, Tôi bày tỏ của nhà
văn Tiêu Dao Bảo Cự mà tôi đã có dịp góp ý trước đây, tiểu luận “Nhà văn Việt
Nam: Đổi mới và Hội nhập” của nhà văn Tô Nhuận Vỹ, hay mới đây tự truyện Lạc đường
của nhà văn Đào Hiếu đã nối tiếp nhau ra đời.
Các anh viết vì bức xúc cá nhân
hay từ nhận thức chính trị không phải là điều quan trọng, điều quan trọng nhất
vẫn là viết ra. Tôi tin rằng với chiều hướng Việt Nam đang cố mở rộng các mối
quan hệ với nước ngoài, những tấm màn sợ hãi sẽ được vén lên cao hơn, những
biên giới cách ngăn sẽ dần dần thu hẹp, trong tương lai sẽ có nhiều tác phẩm
như thế nữa.
Tôi vừa đọc hết tự truyện Lạc đường
của nhà văn Đào Hiếu. Là một người trong thế hệ trẻ hơn, tôi cảm ơn anh đã kể lại
những chặng đường anh đã đi qua, ghi lại những thao thức và trăn trở của anh và
thế hệ anh. Ngay cả những việc chúng ta mới làm hôm qua, hôm nay có thể đã
không còn đúng nữa và những câu nói mới vừa thoát ra khỏi cửa miệng nhiều khi
biết mình nói sai rồi, huống hồ những việc đã làm 40 năm trước. Ai cũng có một
thuở hai mươi và ai cũng trải qua một thời tuổi trẻ. Sinh ra và lớn lên trên
quê hương chiến tranh, nghèo khó, chịu đựng cái nhục của một nước nhược tiểu bị
các nước lớn khinh khi, coi rẻ, câu hỏi làm gì cho đất nước luôn là mối ám ảnh
hàng ngày, hàng đêm trong ý thức của những người trẻ biết đau cái đau của đất
nước.
Năm 1968, năm cao điểm của cuộc
chiến Việt Nam, tôi lớn lên ở gần cửa biển Sơn Chà, quận 3, Đà Nẵng. Buổi chiều
tôi thường ngồi trên cồn cát trắng ở xóm Cổ Mân nhìn những đoàn xe chở bom đạn
nối đuôi nhau từ cảng Tiên Sa nhập vào các kho quân sự chung quanh thành phố để
từ đó đi vào cuộc chiến. Tôi thầm nghĩ những bom đạn kia nay mai đây sẽ rơi xuống
ở một nơi nào đó trên quê hương tôi. Đêm đêm trên đường Bạch Đằng dọc bờ sông
Hàn những anh lính Mỹ đen, Mỹ trắng miệng sặc mùi bia rượu, tay ôm những cô gái
Việt bằng tuổi chị tôi và cất tiếng cười khả ố.
Niềm tự ái dân tộc trong lòng
tôi dâng cao. Tôi cảm thấy bi xúc phạm. Họ xúc phạm không chỉ dân tộc Việt Nam,
người con gái Việt Nam, mà dường như còn xúc phạm đến cả hàng phượng đỏ, hàng
sao xanh trên con đường Bạch Đằng thơ mộng. Cách thành phố Đà Nẵng không xa là
bãi rác Hòa Cầm rộng mênh mông. Nơi đó, mỗi buổi sáng, hàng trăm đứa bé mới
ngoài mười tuổi như tôi bám theo những chiếc xe rác Mỹ để nhặt những miếng thịt
thừa, những lon bơ bỏ dở và ngay cả từng chiếc bao nhựa dơ dáy. Ngày đó, tuy
còn khá nhỏ tôi đã biết tủi thẹn cho số phận của một cây cổ thụ bốn ngàn năm
đang biến thành dây chùm gởi, đồng thời tôi cũng tự hỏi, những điêu tàn đổ nát,
những bất công phi lý của xã hội Việt Nam, trong đó có sự hiện diện của những
người Mỹ đen Mỹ trắng kia phải phát xuất từ một hay nhiều nguyên nhân nào đó.
Hoàn cảnh đất nước và nhiệt tình
tuổi trẻ đã buộc các anh chị chọn lựa cho mình một hướng đi, một lý tưởng sống,
một dâng hiến dành cho quê hương mà các anh chị nghĩ là đúng nhất. Sự chọn lựa
nào cũng kèm theo đó sự hy sinh, cũng mang tính lịch sử và lịch sử Việt Nam trước
1975 là một lịch sử đầy nhiễu nhương, đau thương và ngộ nhận. Nhìn lại tuổi hai
mươi không phải để phê phán những việc làm thời đó đúng hay sai. Sai hay đúng
là thái độ của hôm nay và về sau chứ không phải của quá khứ.
Bốn mươi năm trước, nếu có người
cho rằng xã hội miền Bắc tốt đẹp hơn xã hội miền Nam có thể đã không gây ra nhiều
tranh cãi bởi vì các tệ nạn tham nhũng, quan chức lộng hành quá phổ biến ở miền
Nam trong khi chưa ai thật sự sống một ngày dưới chủ nghĩa xã hội; thế nhưng,
hơn 30 năm sau mà những người đó vẫn còn tiếp tục luận điệu giống như thế thì
đó chỉ là một cách nói liều.
Bốn mươi năm trước, vì giới hạn về
tài liệu tham khảo, nếu có người nhận xét ông Hồ Chí Minh, ông Trường Chinh,
ông Lê Duẩn về mặt đạo đức tốt hơn các ông Tổng thống miền Nam có thể còn thông
cảm, nhưng sau 30 năm với tất cả tài liệu đã được tiết lộ, Cải cách Ruộng đất,
Nhân văn – Giai phẩm, vụ án xét lại, Tổng công kích Mậu Thân, chuyên chính vô sản,
độc tài đảng trị, mà có người sùng bái các lãnh tụ cộng sản trên thì thật là một
niềm tin mù quáng.
Tôi cũng cám ơn nhà văn Tô Nhuận
Vỹ đã phổ biến tiểu luận “Nhà văn Việt Nam: Đổi mới và Hội nhập”, kết quả của đề
tài nghiên cứu mà anh tham gia với William Joiner Center (WJC) thuộc Đại học
Massachusetts trong hai năm 2005 đến 2007. Vài điểm trong tiểu luận của anh có
thể thảo luận như tôi sẽ làm dưới đây, nhưng về tổng quát tiểu luận này đã giúp
cho tôi thêm những kiến thức về sinh hoạt văn học trong nước mà tôi không biết
đến nhiều.
Nhắc đến WJC, tôi nhớ lại những
chuyện xảy ra mười năm trước. Tôi sống ở Boston và không xa lạ gì các khóa hội
thảo mùa hè của WJC. Trong hai năm 1998 và 1999, tôi đã cùng một số anh chị
trong giới cầm bút đến nói chuyện tại các khóa hội thảo mùa hè của trung tâm
này. Mặc dù không phải là nhà văn, nhà thơ có những tác phẩm văn chương đủ tầm
vóc để đại diện cho văn nghệ sĩ hải ngoại, tôi vẫn được mời, đơn giản chỉ vì
tôi sống ngay tại Boston, quen thuộc với sinh hoạt của cộng đồng người Việt và
đã có thời học ở Đại học Massachusetts.
Tôi ủng hộ quan điểm và thái độ
tích cực tham gia vào các khóa hội thảo mùa hè tại Đại học Massachusetts của tổ
chức cộng đồng Việt Nam. Thay vì tập trung các sinh hoạt trong nội bộ người Việt,
sự có mặt trong những buổi thảo luận về văn học Việt Nam, chiến tranh và hậu quả
xã hội Việt Nam tại các diễn đàn rộng hơn, liên quan đến nhiều quốc gia là những
việc nên làm và ngay cả phải làm. Chúng ta đang đấu tranh cho quyền tự do phát
biểu của đồng bào trong nước thì không có lý do gì tự giới hạn quyền phát biểu
của chính mình trong một xã hội tự do.
Trong chiến tranh, chế độ Việt
Nam Cộng hòa không có nhiều cơ hội để nói lên tiếng nói chính nghĩa của mình.
Miền Nam không phải của ông Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu hay Dương Văn Minh
mà là miền Nam của hơn hai chục triệu người, trong đó có một triệu người lính
đã phải chiến đấu trong những điều kiện hết sức khó khăn, vừa cô đơn và cũng vừa
cô thế.
Những vành khăn tang trắng của những người vợ lính, những đứa bé mồ côi
vì cha vừa tử trận chỉ trắng trong các khu gia binh nghèo, trong những căn nhà
tranh heo hắt chứ không trắng trên các màn ảnh truyền hình quốc tế.
Và từ sau
1975, các nhà văn, nhà thơ từ các quốc gia khác cũng chỉ biết Việt Nam dưới chế
độ cộng cản qua vở kịch do Đảng Cộng sản Việt Nam dàn dựng, qua các khẩu hiệu
tuyên truyền của phe có quyền ăn nói, nhưng không biết đến một Việt Nam khác
đang bị bịt miệng, đang bị đày ải trong tù ngục và bị tước đoạt những quyền căn
bản của con người.
Do đó, giống như việc thắp lên que diêm trong đêm tối trời,
gióng lên được một tiếng nói của lương tâm dù ở đâu cũng là điều cần thiết.
Ngoại trừ tôi, hầu hết các nhà
văn miền Nam tham dự các khóa hội thảo mùa hè do WJC tổ chức đều đã nhiều năm
phục vụ trong quân đội và thời gian ở tù sau 1975 cũng không ngắn hơn bao nhiêu
so với quãng đời lính tráng của họ.
Trong số anh em chúng tôi, nhà văn Hoàng Ngọc
Liên lớn tuổi nhất. Vào tháng 9 năm 1999 ông đã ngoài 70 tuổi. Là một cựu sĩ quan
cao cấp trong quân đội Việt Nam Cộng hòa và bị giam 13 năm trong các nhà tù khắp
miền bắc, thế nhưng, ông không dùng diễn đàn WJC để tố cáo tội ác cộng sản, để
đòi Đảng Cộng sản phải đền nợ máu trước nhân dân, đòi giới lãnh đạo Đảng phải ở
tù ít nhất bằng số năm ông đã từng phải ở.
Không. Nhà văn Hoàng Ngọc Liên xem
buổi hội thảo chỉ là cơ hội để kể lại những điều mắt thấy tai nghe trong năm
tháng ông ở tù và quan trọng hơn, nhắn gởi những lời đầy hy vọng đến những người
cầm bút Việt Nam thuộc thế hệ trẻ trong nước cũng như đang tham gia trong khóa
hội thảo mùa hè năm đó.
Trong bài viết “Những câu chuyện chưa kể” ông đọc ở hội
thảo vào buổi chiều ngày 1 tháng 9 năm 1999 tại Đại học Massachusetts, Boston,
nhà văn Hoàng Ngọc Liên kết luận: “Tôi nghĩ rằng lâu nay, nhất là từ năm 2000,
tuổi trẻ Việt Nam là kỳ vọng của dân tộc Việt Nam, trong chiều hướng góp phần
xây dựng đất nước chúng tôi, một đất nước bị chiến tranh tàn phá, sau 24 năm
hòa bình, thống nhất, vẫn còn nghèo nàn, lạc hậu mà dân chúng hầu như xa lạ với
những quyền Tự do căn bản của con người. Tôi, và những người như tôi, tin tưởng
vào thế hệ trẻ, ủng hộ các bạn trẻ cầm bút, với văn phong mới mẻ hơn, súc tích
hơn.”
Nếu câu nói trên do tôi nói ra
thì chẳng có gì đáng để ý. Tôi trẻ hơn nhà văn Hoàng Ngọc Liên nhiều, chưa từng
bị đánh đập, bị đày ải một ngày nào trong các trại tập trung Hoàng Liên Sơn,
Thanh Phong, Vĩnh Phú, phát biểu hay ca ngợi lòng nhân ái là chuyện thường
tình, nhưng nhà văn Hoàng Ngọc Liên thì khác, ông vừa mới thoát ra khỏi địa ngục
trần gian cộng sản, sức khỏe chưa kịp phục hồi, thân thể còn đau nhức nhưng vẫn
dựa lên các giá trị thiêng liêng của tình dân tộc và mục đích Tự do, Nhân bản
cho các thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau để nói lên những lời tâm huyết của
mình.
Thật quý hóa và may mắn biết bao nhiêu. Không ai hòa giải với ông và ông
cũng chẳng cần ai hòa giải. Ông đã tự hóa giải các xung đột bằng nhận thức và
qua đó đã hòa giải được với chính mình. Dù bị tù 13 năm ông đã bước ra khỏi cổng
trại như một người chiến thắng chứ không phải người thua trận. Ông trở về như
sau một cuộc hành quân dài chứ không phải một người vừa được trao trả tự do, bởi
vì lý tưởng Tự do Nhân bản vẫn còn là nguồn thôi thúc trong lòng nhà văn 70 tuổi
và ông vững tin mục đích tốt đẹp đó một ngày sẽ đến với đất nước Việt Nam.
Đọc tiểu luận “Nhà văn Việt Nam:
Đổi mới và Hội nhập”, tôi cũng tìm thấy trong nhà văn Tô Nhuận Vỹ một ước vọng
ngày mai tươi sáng như nhà văn Hoàng Ngọc Liên. Đất nước phải vượt qua những bế
tắc, văn học phải vượt qua những bế tắc, mỗi nhà văn nhà thơ cũng phải tìm mọi
cách vượt qua những bế tắc của chính mình để đi lên và đưa đất nước đi lên.
Tuy
nhiên, khác với nhà văn Hoàng Ngọc Liên ở điều kiện tự do, nhà văn Tô Nhuận Vỹ
cho rằng bước đầu tiên và cần thiết nhất để hội nhập văn học Việt Nam trong
cũng như ngoài nước là hòa hợp hòa giải trong giới văn nghệ sĩ: “đội ngũ nhà
văn Việt Nam sẽ đóng vai trò đi đầu, là chiếc cầu nối cho việc hoà giải, hoà hợp
dân tộc, đặc biệt giữa cộng đồng người Việt ở nước ngoài với đồng bào trong nước,
do hoàn cảnh lịch sử, đã để lại một hố sâu ngăn cách, dị biệt chua xót sau chiến
tranh.”
Tôi không nghi ngờ thiện chí của
nhà văn Tô Nhuận Vỹ nhưng thành thật mà nói, hòa giải hòa hợp chỉ là một chiếc
bóng do Đảng vẽ ra mà những người Việt có lòng đang đuổi bắt như đã từng đuổi bắt
con bồ câu hòa bình trước 1975.
Hình ảnh con bồ câu trắng hiền
hòa trên bầu trời quê hương thân yêu đã đẩy bao nhiêu tuổi trẻ Việt Nam tự nguyện
lao vào chỗ chết, đơn giản bởi vì “nếu là chim tôi sẽ làm một bồ câu trắng và nếu
là người tôi sẽ chết cho quê hương”.
Các thành phố lớn miền Nam như Huế, Đà Nẵng,
Sài Gòn, đâu đâu cũng xuất hiện các phong trào đòi quyền sống, đòi hòa bình,
đòi tự quyết. Các cuộc xuống đường diễn hành gần như mỗi ngày, mỗi tuần, nhiều
đến nỗi làm cho dư luận quốc tế và cả những người hiểu biết giới hạn về chính
trị có nhận xét trong các phe đang đánh nhau chỉ có chính quyền miền Nam mới là
những kẻ hiếu chiến và đi ngược lại khát vọng hòa bình dân tộc.
Kỹ thuật tuyên truyền tinh vi của
Đảng đã biến những người lính miền Nam đang ngày đêm đổ máu trong cuộc chiến mà
không có quyền chọn lựa thành những kẻ sát nhân, trong lúc những kẻ ném lựu đạn
vào nhà hàng Mỹ Cảnh, pháo kích vào trường tiểu học Cai Lậy, chôn sống đồng bào
trên Bãi Dâu Huế, đặt mìn trên quốc lộ số một… lại trở thành những anh hùng dân
tộc.
Và sau 1975, mọi người đều biết tất cả các phong trào hòa bình giả tạo đó
đều do Trung ương Đảng trực tiếp chỉ đạo, những con chim bồ câu trắng xinh xinh
kia là do bàn tay Đảng vẽ ra, và những kẻ ném bom ngày nào cũng không ai khác
hơn chính là những đảng viên biệt động thành trung kiên của Đảng.
Tôi cũng không nghĩ cần thiết phải
có một nhu cầu hòa giải trong giới văn nghệ sĩ dù một thời đã phải đứng hai bên
chuyến tuyến khác nhau. Tôi chưa gặp anh Tô Nhuận Vỹ chỉ vì chúng ta chưa có điều
kiện gặp nhau chứ không phải tôi hận thù, oán trách gì anh mà không gặp. Tôi đi
rất nhiều nơi và tiếp xúc với nhiều anh chị chú bác trong giới cầm bút nhưng rất
hiếm khi gặp một nhà văn nhà thơ mang lòng thù hận các nhà văn nhà thơ trong nước.
Một số khá đông không thích tham gia vào các tác phẩm viết chung giữa các nhà
văn trong nước và hải ngoại bởi vì họ không muốn làm cái loa tuyền truyền giùm
cho Đảng, vả lại những tác phẩm viết chung chẳng đem lại một lợi lạc gì cụ thể
khi phần lớn chỉ phát hành tại hải ngoại chứ không phải trong nước, một nơi có
80 triệu người cần phải đọc.
Sau 33 năm, hàng trăm tác phẩm được viết trước
1975 tại miền Nam vẫn chưa được tái bản, chưa được công nhận, nhà văn nhà thơ gốc
Việt Nam Cộng hòa vẫn còn bị đối xử như một thứ công dân hạng hai, nói chi là
các nhà văn nhà thơ vượt biên sau 1975 và tác phẩm của họ được viết ra tại hải
ngoại.
Nếu văn học là đời sống tinh thần của con người trong một thời đại nhất
định thì văn học hải ngoại hẳn phải mang đậm nét của hành trình tìm tự do đầy
gian khổ, đương nhiên những tác phẩm như thế sẽ không bao giờ có mặt trong một
nhà sách nào ở Việt Nam khi chế độ cộng sản còn tồn tại.
Tình cảm giữa những người cầm bút
dù bên này hay bên kia không xa cách nhiều như anh Tô Nhuận Vỹ lo lắng. Tôi còn
nhớ mười năm trước, vài ngày trước khi đến WJC tham gia hội thảo, có người hỏi
tôi, nếu gặp nhau trong buổi hội thảo, tôi sẽ làm gì, sẽ đối xử ra sao với những
người được gọi là “văn nô cộng sản” từ Việt Nam sang.
Tôi trả lời người đó rằng
sau buổi hội thảo, tôi sẽ rủ các anh chị từ trong nước sang đi uống cà-phê. Mọi
người ngồi chung quanh tôi hôm đó đều bật cười vì nghĩ rằng tôi nói chơi.
Không, tôi nói thật. Tôi đã đi uống cà-phê với nhiều anh chị văn nghệ sĩ từ
trong nước sang. Không giống như những năm đầu, thời anh Lê Lựu sang tham gia
WJC trở về, viết những bài ký sự rẻ tiền được in trong hai tập ký Một thời lầm
lỗi và Trở lại nước Mỹ, các anh chị đến những năm sau dễ thông cảm hơn nhiều.
Gặp
ai tôi cũng chỉ yêu cầu một điều, hãy viết về cuộc đời và đất nước như các anh
các chị đã từng sống. Thời kỳ viết theo chỉ thị đã qua rồi, xin để lại cho các
thế hệ mai sau những lời chân thật. Hơn bao giờ hết đất nước đang cần những người
nói thật và sống thật.
Đối với các em sinh viên du học
cũng thế. Tôi gặp họ rất sớm. Nhiều em mới sang còn đọc thơ Tố Hữu cho tôi nghe
và còn nói về “Bác Hồ là vị cha chung, là sao Bắc Đẩu là vầng Thái Dương” của
các em bằng một ánh mắt hồn nhiên và hãnh diện.
Tôi kiên nhẫn nghe mà không phản
đối bởi vì tôi hiểu đó là tất cả những gì em có. Thế giới tri thức của em từ lớp
vỡ lòng đã được đóng khung trong những bài giảng đầy tính giáo điều cuồng tín.
Một tuần lễ trước khi bị xử tử hình về tội diệt chủng, Nicolae Ceausescu vẫn
còn được học sinh Rumani, giống như các em học sinh Việt Nam ngày nay, ca tụng
là tinh hoa kết tụ từ dòng trường giang Danube.
Tôi biết sau 4 năm đại học, các
em sẽ thay đổi. Các em còn trẻ nên những thói hư tật xấu, mê tín dị đoan dễ đến
nhưng rồi cũng sẽ dễ đi. Bệnh sùng bái cá nhân sẽ bớt dần, nhường chỗ cho ánh
sáng khoa học thâm nhập vào tâm hồn trẻ trung của các em. Quá trình đổi mới nhận
thức không diễn ra trong một sớm một chiều mà là một quá trình dài, từng bước
và liên tục. Các em sẽ lớn lên và trưởng thành không phải chỉ ở tuổi tác mà cả
về trí thức. Mỗi thế hệ có trách nhiệm riêng trong từng giai đoạn lịch sử. Các
bậc cha chú dù đúng hay sai rồi cũng sẽ lần lượt xuống đất hay lên giàn hỏa và
các em sẽ phải nghiêng vai gánh vác trách nhiệm lịch sử của thế hệ mình. Các em
có quyền trách móc, đổ thừa nhưng không có quyền từ chối.
Cửa nhà tôi ngày đó giống như cửa
chùa, ai đến cũng được, tôi chưa bao giờ hỏi lý lịch hay căn cước người nào.
Cách nói và cách trả lời với từng người có thể khác, nhưng đều chuyên chở một
quan điểm chính trị và niềm tin về tương lai đất nước giống nhau.
Quan điểm
chính trị của tôi rất rõ ràng và đơn giản. Với tôi, cả dân tộc Việt Nam từ Bắc
đến Nam, từ nhà văn nhà thơ cho đến người chưa hề viết nổi một lá thư, từ các
nhà trí thức học nhiều hiểu rộng cho đến các bác nông dân tay lấm chân bùn, từ
các cha cho đến các thầy, từ những người đã chết sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam
thành lập năm 1930 hay còn sống hôm nay, nói chung hơn 80 triệu người, đều là nạn
nhân của chủ nghĩa cộng sản.
Đảng Cộng sản thắng trong chiến
tranh không phải vì họ có chính nghĩa, mà bởi vì họ đã kiên trì với mục đích
nhuộm đỏ Việt Nam, được tổ chức một cách tinh vi từ trung ương Đảng cho đến tận
tổ ba người và khai thác triệt để lòng yêu nước sâu đậm của người dân Việt Nam.
Tôi cũng có một niềm tin rằng dân tộc Việt Nam với mật độ dân số trung bình
không quá đông hay quá ít, với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, với lực
lượng chuyên viên đông đảo trong các ngành khoa học đang có mặt trên khắp thế
giới, với truyền thống yêu nước Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa vẫn chảy đầy trong
huyết quản, nếu được chắp đôi cánh tự do, dân chủ, nhân bản, Việt Nam sẽ bay
lên cao, sẽ thật sự trở thành một cường quốc kinh tế, cường quốc quân sự, sẽ đủ
khả năng bảo vệ sự toàn vẹn vùng trời, vùng biển của tổ quốc thiêng liêng. Nếu
không có tự do dân chủ, “khát vọng cất cánh” mà anh Tô Nhuận Vỹ nêu ra trong phần
đầu tiểu luận chỉ là một giấc mơ tiên.
Có người cho rằng Đảng Cộng sản
đã có một thời đồng hành với dân tộc, cùng hướng đến một mục tiêu như dân tộc
Việt Nam, do đó vai trò lãnh đạo của Đảng ngày nay là hệ quả tất yếu của lịch sử.
Tôi không đồng ý.
Đó là lý luận của kẻ cướp.
Với tôi, rất nhiều đảng viên Đảng
Cộng sản tham gia chống Pháp phát xuất từ lòng yêu nước và đã chết cho đất nước
như tôi đã nhiều lần viết trên diễn đàn này, nhưng bản thân Đảng Cộng sản như một
tổ chức chính trị chưa bao giờ đồng hành với dân tộc.
Việc giành lại nền độc lập
và chủ quyền đất nước từ tay thực dân là mục tiêu, là bến bờ của dân tộc Việt
Nam, trong khi đó đối với Đảng Cộng sản, độc lập dân tộc chỉ là phương tiện, một
chiếc cầu, một chiếc ghe họ cần có để đi qua trên đường tiến tới cách mạng vô sản.
Mục tiêu đó đã được khẳng định ngay trong “Luận cương chính trị” Đại hội Đảng Cộng
sản Đông Dương do Trần Phú chủ trì năm 1930 và được Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương phê chuẩn vào tháng 4 cùng năm:”Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
trong cuộc cách mạng; hai giai đoạn cách mạng từ cách mạng tư sản dân quyền chống
đế quốc và phong kiến nhằm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có
ruộng và sau đó chuyển sang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa.”
Sau 1975, một số người từng xếp
bút nghiên vào rừng “Chống Mỹ cứu nước” đã phẫn nộ, kết án giới lãnh đạo Đảng
đi ngược lại quyền lợi dân tộc, phản bội lý tưởng, phản bội máu xương của đồng
chí họ, đưa đất nước đi vào con đường nghèo đói, độc tài, đảng trị.
Nghĩ cho
đúng, đó là những lời kết án thiếu cơ sở lý luận lẫn thực tế. Thật là oan cho Đảng.
Nếu họ chịu khó đọc các đề cương chính trị đại hội Đảng từ ngày thành lập 78
năm trước cho đến đại hội lần thứ X cách đây hai năm, sẽ thấy Đảng Cộng sản
chưa bao giờ phản bội mục tiêu của mình.
Mục tiêu cộng sản hóa toàn cõi Việt
Nam và đặt dân tộc Việt Nam dưới quyền cai trị tuyệt đối của Đảng chưa bao giờ
thay đổi. Vì một số điều kiện cách mạng và biến chuyển chính trị thế giới xảy
ra ngoài tiên liệu, các chính sách của Đảng cũng phải theo đó mà áp dụng một
cách thích nghi hơn, mềm dẻo hơn qua những chính sách gọi là “đổi mới”, “hội nhập”
v.v…, nhưng mục đích của Đảng từ trước đến sau luôn nhất quán.
Có người đến nay vẫn nghĩ rằng việc
họ hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng Cộng sản để đứng lên “Chống Mỹ cứu nước” là một
lý tưởng cao đẹp của cuộc đời họ, nhưng không biết rằng câu đó chỉ là một trong
hàng chục khẩu hiệu có tính giai đoạn mà Đảng đã dùng. Nếu Mỹ không qua Việt
Nam thì Đảng có để yên cho nhân dân miền Nam xây dựng một xã hội tự do dân chủ
không? Chắc chắn là không. Dĩ nhiên, Mỹ không qua sẽ không có khẩu hiệu “Chống
Mỹ cứu nước”, nhưng Đảng có thừa chuyên viên truyên truyền chuyên nghiệp để
nghĩ ra những khẩu hiệu khác không kém phần khích động.
Tôi đồng ý với nhà văn Tô Nhuận Vỹ
rằng giữa các nhà văn nhà thơ trong và ngoài nước hay đã từng đứng trên chuyến
tuyến khác nhau vẫn còn “một hố sâu ngăn cách, dị biệt chua xót”, nhưng nghĩ
cho đúng, cái hố sâu đó chẳng phải do nhà văn nhà thơ nào đào ra.
Đó không phải
là hố sâu tình cảm mà là hố sâu ý thức hệ.
Theo lẽ tự nhiên, ai đào ra thì người
đó phải lấp lại. Trách nhiệm hòa giải hòa hợp dân tộc, xóa bỏ các cách ngăn về
ý thức hệ là trách nhiệm của giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong suốt
33 năm qua với bao nhiêu cơ hội nhưng các lãnh đạo Đảng chẳng những không thể
hiện một hành động nào cụ thể để chứng tỏ tinh thần hòa giải hòa hợp dân tộc mà
càng đào sâu hơn những hố sâu ngăn cách, làm lở loét thêm những vết thương vẫn
còn đang mưng mủ trên da thịt của nhiều triệu người Việt Nam.
Việc yêu cầu
chính quyền Nam Dương đập bỏ tấm bia tưởng niệm đồng bào chết trên Biển Đông
hay việc tổ chức rầm rộ kỷ niệm 40 năm Mậu Thân trên nỗi đau câm nín của hàng
ngàn đồng bào Huế là vài ví dụ điển hình.
Với đồng bào hải ngoại, những
hành động xúc phạm hương linh của những em bé chết trôi, những bào thai ngột nước
ngay lúc còn trong bụng mẹ, những oan hồn đang vất vưởng khắp Biển Đông như thế,
làm sao lãnh đạo Đảng Cộng sản có thể vận động được đoàn kết trong ngoài, nhất
là đối hơn hai triệu người Việt hải ngoại, để cùng đưa đất nước đi lên?
Với đồng bào trong nước, những
chương trình ca nhạc rầm rộ mừng 40 năm chiến thắng Mậu Thân, trong lúc cùng thời
điểm đó trên khắp ba miền đất nước, nhất là tại Huế, hàng trăm ngàn đồng bào
đang khóc trong âm thần, trong tủi nhục, trong hờn căm u uất, thì làm sao lãnh
đạo Đảng có thể phát huy được nội lực dân tộc?
Bất cứ một người Việt Nam nào với
một trình độ nhận thức trung bình cũng biết những hành động vừa nêu của giới
lãnh đạo Đảng là không cần thiết và quá đáng. Tôi tin ngay cả trong Bộ Chính trị
và Trung ương Đảng cũng có người biết việc đó là phi nhân, lạc hậu, vụng về và
quá đáng, nhưng họ không có chọn lựa nào khác ngoài việc phải làm, đơn giản bởi
vì che đậy tội ác là phản ứng tự nhiên của những kẻ đã gây ra tội ác.
Chim bay cần đôi cánh nhưng không
phải giống chim nào có cánh cũng có thể bay cao. Chim se sẻ chỉ biết bay quanh
vườn, nhảy nhót trên những cành xoài, cành ổi, nhưng để có một hạm đội Việt
Nam, một phi đoàn Việt Nam, một vệ tinh Việt Nam, một phi thuyền Việt Nam, đất
nước phải cần có đôi cánh phượng hoàng, nói đúng hơn là đôi cánh dân tộc.
Đảng
Cộng sản Việt Nam, với những mâu thuẫn đối kháng và bế tắc ngay từ bên trong cơ
cấu độc tài đảng trị sẽ không có khả năng đưa đất nước lên ngang tầm với thời đại,
và do đó, việc chọn lựa một con đường thay thế là trách nhiệm của các thế hệ Việt
Nam trong và ngoài nước hôm nay.
Blog Trần Trung Đạo
RỒI cái THIỆN sẽ lấn cái ÁC, cái ĐẸP sẽ xoá cái XẤU. Vấn đề thời gian mà thôi. Á Đông cái ÁC cái XẤU nặng quá nên cần thời gian lâu dài hơn.
Trả lờiXóa