12-10-2012
Cuối năm 2009, nhà văn Phạm Đình Trọng viết đơn xin ra khỏi đảng Cộng
sản. Tin này đang làm xôn xao hàng ngũ các nhà văn, nhà báo, cựu chiến binh và
anh chị em trí thức, sinh viên và học sinh ở trong nước.
Vì Phạm Đình Trọng là
một khuôn mặt được quen biết rộng rãi, một nhà văn của quần chúng, một nhà báo
gắn liền với thời sự quê hương, một nhà thơ có cốt cách dân gian, được tuổi trẻ
ngưỡng mộ, gần đây được cư dân bloggers trong nước quý mến.
Quê ông ở làng Thiện Phiến, huyện Tiên Lữ (Hưng Yên). Từ người lính binh chủng Thông tin, ông từng làm ở Xưởng phim Quân đội nhân dân, từ quân đội chuyển ngành với quân hàm Thiếu tá, họcĐại học Văn, từng qua Trường Viết Văn Nguyễn Du, rồi về làm báo ở Thời báo Tài chính. Trọng có những tác phẩm gây tiếng vang, do tính ngay thật của anh, thẳng thắn, ghét bất công cường quyền, "giữa đường thấy chuyện bất bình chẳng tha", khí tiết mang bản chất của người đảng viên Cộng sản chân chính...
Cuốn "Rừng và Biển" và "Sự
Tích Đảo" kết hợp khoa học với trữ tình được bạn đọc trẻ ưa thích. Cuốn "Thời
nghịch lý" tô đậm thời sự nóng hổi đất nước gây nhiều tranh cãi. Bài
báo"Tiếng Hà Nội " của anh làm xôn xao giới giáo dục và học
sinh...
Phạm Đình Trọng gần đây trở thành
một gương mặt kẻ sỹ Bắc Hà mang bản chất phản biện khá quyết liệt.
Con người của Trọng có tư chất đấu
tranh sâu sắc còn ở chỗ anh là một chiến sỹ, một "con nhà võ" có nòi,
vì quê anh có nhiều lò võ cổ truyền, bản thân anh rất sùng võ nghệ, anh từng
luyện võ gian khổ, thành một võ sư quyền thuật cổ truyền.
Ngày 3-3-2009, nhà báo Phạm Đình
Trọng gửi lá thư cho thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng góp ý, kiến nghị, chất
vấn, nhân danh một công dân, về những chuyện lớn lao của quốc gia, từ chống
tham nhũng đến bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ, biển đảo của tổ quốc, về chủ trương
nguy hiểm tệ hại khai thác bô-xít trên Tây Nguyên...Nhưng ý kiến đề xuất của
ông đã không được coi trọng, trái lại ông bị “cấp trên” chỉ đạo cho bộ ở nơi mà
ông nghỉ hưu phê phán, kiểm điểm. Ngày 20-11-2009, khi Phạm Đình Trọng tuyên bố
công khai vĩnh biệt đảng Cộng sản sau gần 40 năm trong đảng, tôi cho là một bước
tất yếu.
Bài viết mới hôm qua (11-10-2012) của
nhà văn Phạm Đình Trọng như một Bản cáo trạng đanh thép đối với Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng. Trang blog Ba Sàm và nhiều trang mạng đã đăng bài viết này để rộng đường
dư luận về một hiện trạng bức xúc đang đặt ra giữ lúc Đảng ta đang diễn ra Hội
nghị Trung ương 6. Vẫn như phong cách của ông, rất trực diện, nhưng trung thực,
cương trực, thẳng thắn:
ÔNG THỦ TƯỚNG KHINH TRÍ TUỆ, TRỌNG
BẠO LỰC
PHẠM ĐÌNH TRỌNG
11-10-2012
11-10-2012
Câu nói đầu tiên, ngay trong giây phút trang nghiêm, trọng đại nhận chức trách người
đứng đầu Chính phủ, giây phút được ghi vào lịch sử mở ra triều đại một Chính phủ
mới, câu nói trong giây phút lịch sử không thể lãng quên đó của Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng là: Tôi kiên quyết và quyết liệt chống tham nhũng. Nếu không chống
được tham nhũng, tôi xin từ chức ngay.
Việc làm đầu tiên của ông Thủ tướng chống tham nhũng bằng ngôn từ hùng hồn là: Giải tán ngay Ban Nghiên cứu của Thủ tướng, nơi hội tụ những chuyên gia, những trí tuệ thông thái hàng đầu của đất nước về quản lí kinh tế và quản lí Nhà nước được hai Thủ tướng đàn anh của ông Dũng là Thủ tướng Võ Văn Kiệt và Thủ tướng Phan Văn Khải thành lập, tin dùng và kính trọng, coi Ban Nghiên cứu của Thủ tướng như trí tuệ, như túi khôn của nhân dân, của đất nước giúp họ đường đi nước bước và tầm nhìn trong điều hành hoạt động kinh tế và quản lí xã hội.
Việc làm đầu tiên của ông Thủ tướng chống tham nhũng bằng ngôn từ hùng hồn là: Giải tán ngay Ban Nghiên cứu của Thủ tướng, nơi hội tụ những chuyên gia, những trí tuệ thông thái hàng đầu của đất nước về quản lí kinh tế và quản lí Nhà nước được hai Thủ tướng đàn anh của ông Dũng là Thủ tướng Võ Văn Kiệt và Thủ tướng Phan Văn Khải thành lập, tin dùng và kính trọng, coi Ban Nghiên cứu của Thủ tướng như trí tuệ, như túi khôn của nhân dân, của đất nước giúp họ đường đi nước bước và tầm nhìn trong điều hành hoạt động kinh tế và quản lí xã hội.
1. LỜI NÓI: DỐI TRÁ
Trước thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, tham nhũng ở Việt Nam chỉ rải rác, đột xuất
và những vụ tham nhũng lớn cũng chỉ vài chục tỉ đồng như vụ đình đám Lã Thị Kim
Oanh gây thiệt hại cho Nhà nước 34 tỉ đồng, tham nhũng vài triệu đô la như vụ
chấn động PMU18, tham nhũng vài nền nhà ở, mỗi nền nhà chỉ trên dưới một trăm
mét vuông đất như vụ ồn ào tư túi đất tái định cư ở Đồ Sơn, Hải Phòng… Chỉ vậy
thôi cũng làm cả xã hội kinh hoàng, sửng sốt, đau xót, nhức nhối, phẫn nộ và
xao xác, vơi hụt lòng tin vào chính quyền. Vì tham nhũng từ chính quyền mà ra,
phải có quyền lực mới có thể tham nhũng.
Đến thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, như được bật đèn xanh, tham nhũng nhất tề,
đồng loạt, rầm rộ nổi lên khắp nơi như mầm cỏ dại gặp hơi ấm mùa xuân. Các quan
tham từ cấp phường, xã đến cấp Trung ương, Chính phủ đồng khởi ra tay vơ vét,
ngang nhiên lộ mặt tham nhũng. Tham nhũng trở thành bình thường đến mức chỉ cấp
thấp, tham nhũng vặt không đủ ăn chia cho nhiều người nên thân cô thế yếu mới
phải thậm thụt, dấm dúi chiếm đoạt vài chục triệu đồng tiền trợ cấp bão lụt, trợ
cấp xóa đói giảm nghèo, tiền chế độ chính sách thương binh, liệt sĩ, chỉ gây
thiệt hại cho vài cá nhân. Cấp thấp, tham nhũng vặt, thân cô thế yếu, bị người
dân tố cáo, tham nhũng nhanh chóng bị phanh phui và trừng trị đích đáng. Cấp
cao, tham nhũng lớn, ăn chia đều khắp và quyền uy bao trùm thì thản nhiên vẽ ra
những dự án hoành tráng để tham nhũng hàng trăm, hàng ngàn hecta đất như dự án
ma thu hồi hàng ngàn hecta đất nông trường sông Hậu ở Cần Thơ, như dự án quỉ
thu hồi năm trăm hecta đất ở Văn Giang, Hưng Yên. Thản nhiên lập ra những tập
đoàn kinh tế lớn để tham nhũng hàng chục ngàn tỉ đồng, hàng trăm ngàn tỉ đồng
như tập đoàn công nghiệp Tàu thủy Việt Nam, Vinashin, tham nhũng, vơ vét làm thất
thoát hơn trăm ngàn tỉ đồng.
Trước thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, thiệt hai do tham nhũng gây ra chỉ tính tới
triệu đô la, người dân đi khiếu kiện bị quan tham cướp bóc chỉ là những cá thể
đơn độc. Thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, mỗi vụ tham nhũng gây thiệt hại lên đến
hàng tỉ đô la, lớn gấp ngàn lần, làm lao đao cả nền kinh tế, dìm đất nước chìm
sâu trong nghèo khó, kéo dài cuộc sống khốn khổ, bất an của người dân, làm rối
loạn cả xã hội, gây đau khổ, oan khiên cho hàng ngàn, hàng chục ngàn người dân.
Dân oan bị quan tham cướp đất lũ lượt từng đoàn hàng trăm người giương cờ, căng
banner, giơ cao bảng chữ, đội đơn đi khiếu kiện, tố cáo tham nhũng.
Cả hệ thống quyền lực Nhà nước làm ngơ trước nỗi đau khổ, oan khiên của chúng
sinh, làm ngơ trước cường quyền tham nhũng. Tham nhũng ung dung tồn tại và phát
triển. Quan tham vẫn bình thản, vững vàng trên ghế quyền lực chăn dân, vẫn cao
giọng bảo ban dạy dỗ dân, vẫn hà khắc đe nẹt, cấm đoán, tước đoạt mọi quyền của
người dân, đàn áp, bắt bớ dân oan đi khiếu kiện và vẫn nỏ mồm hô hào, chỉ đạo học
tập, lên lớp giảng dạy đạo đức Hồ Chí Minh, tạo ra hình mẫu, khuôn thước của một
xã hội tham lam và dối trá. Cả một hệ thống quyền lực tham lam và dối trá. Quan
tham tồn tại bằng dối trá. Chính quyền cũng tồn tại bằng dối trá!
Tham nhũng tiền bạc. Tham nhũng đất đai. Tham nhũng cả quyền lực. Trong các loại
tham nhũng đó thì tham nhũng quyền lực là nguy hại lớn nhất, di họa lâu dài nhất.
Lịch sử gần bảy mươi năm cầm quyền của đảng Cộng sản Việt Nam, chưa có thời nào
những người lãnh đạo cấp cao của đảng lại ngang nhiên giành những chiếc ghế quyền
lực lớn về chính trị, quyền lực lớn về kinh tế cho con cháu, người thân của họ
như thời ông Nguyễn Tấn Dũng là lãnh đạo hàng đầu của đảng Cộng sản, là người đứng
đầu Chính phủ.
Trong mùa đại hội đảng bộ cơ sở
tiến tới đại hội đảng toàn quốc lần thứ 11, con trai cả của Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng được đề cử vào thành ủy thành phố Sài Gòn nhưng số phiếu bầu cho cậu ấm
nhà Thủ tướng Dũng thấp thảm hại. Bốn trăm người cầm phiếu bầu, chỉ có mười lăm
người để lại tên cậu ấm của Thủ tướng Dũng trong phiếu, còn ba trăm tám mươi
nhăm người thẳng thừng xóa tên cậu ấm. Nhưng chỉ ba tháng sau, đến đại hội đảng
toàn quốc lần thứ 11, người không đủ tín nhiệm vào ban Chấp hành đảng bộ cấp địa
phương, nơi ông ta sống và làm việc, nơi tổ chức đảng gần gũi, hiểu về ông ta đầy
đủ nhất, lại ung dung chiếm được ghế ban Chấp hành trung ương, tạo thế cho ông
ta bước một bước từ phó hiệu trưởng một trường đại học ở Sài Gòn lên chức Thứ
trưởng một bộ mạnh của cả nước, thuộc hàng ngũ thành viên của Chính phủ Nguyễn
Tấn Dũng.
Không vào được ban Chấp hành đảng
địa phương lại vào được ban Chấp hành đảng trung ương vì nhiều lãnh đạo hàng đầu
của đảng cũng muốn kiếm chiếc ghế ban Chấp hành trung ương đảng đầy lợi lộc và
quyền uy cho con cái họ làm bệ phóng vào hàng ngũ quan chức cao cấp Nhà nước chỉ
để con cái họ vinh thân phì gia.
Ông Tổng bí thư họ Nông quê tít trên rừng sâu Na Rì, Bắc Cạn, đại hội 10 khóa
trước đã đôn đáo đưa con trai vào cơ quan quyền lực Trung ương mà không thành,
đại hội đảng toàn quốc lần thứ 11 là cơ hội cuối cùng, ông phải làm được việc
còn dang dở đó. Phải làm được việc là nỗi bận tâm lớn nhất của ông ở cương vị Tổng
bí thư, ông mới thanh thản rời chính trường về an nghỉ tuổi già. Ông ủy viên Bộ
Chính trị, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương đầy quyền lực trước khi nghỉ
hưu cũng muốn để lại hương hỏa cho con chiếc ghế quyền lực của đảng. Các ông liền
vất bỏ lợi ích của đảng, vất bỏ mục tiêu, lí tưởng và cả thanh danh của đảng để
nhân nhượng, thỏa hiệp, ủng hộ nhau giành chiếc ghế quyền lực cho con cái. Tổng
bí thư, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Thủ tướng Chính phủ, những quyền
uy lớn đó đều có ơn nghĩa với nhiều vị trí khác trong cơ quan lãnh đạo cấp cao
nắm quyền quyết định mọi vấn đề của đảng. Những quyền uy lớn đó đã thỏa hiệp, ủng
hộ nhau chiếm ghế quyền lực của đảng cho con cái thì việc bỏ phiếu chỉ còn là
thủ tục!
Nhìn ba ông Ủy viên Bộ Chính trị, hai ông chờ nghỉ hưu còn đưa được những đứa con ở cấp tỉnh, cấp huyện vào cơ quan quyền lực cấp trung ương của đảng, ông Ủy viên Bộ Chính trị đương chức, lại đương chức Trưởng ban Tổ chức Trung ương, nơi quản lí, sắp xếp đội ngũ cán bộ cấp cao, nơi phân chia quyền lực thượng đỉnh trong đảng, liền đưa cô con gái mới tốt nghiệp trường báo chí, chưa có đóng góp gì, chưa được trải nghiệm, chưa được thử thách trong cuộc đời, không biết gì về kinh tế, càng không biết những qui luật khách quan và nghiệt ngã của kinh tế và mới hai mươi ba tuổi đời ngơ ngác, nhảy tót lên chiếc ghế quyền lực lớn về kinh tế, đứng đầu một đơn vị kinh tế Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực của kĩ thuật: xây dựng công nghiệp, doanh thu hàng năm cả ngàn tỉ đồng.
Đất nước không thiếu những người được đào tạo bài bản chuyên sâu về khoa học kĩ
thuật, giỏi kinh doanh và có tài quản lí kinh tế. Chiếc ghế mà cô con gái hai
mươi ba tuổi của ông ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương nhảy
tót lên chiếm giữ là chiếc ghế của những người có khoa học kĩ thuật và giỏi quản
lí đó. Mặc dù sau hai tháng sỗ sàng ngồi trên chiếc ghế cao của đơn vị kinh tế
Nhà nước, cô con gái ông ủy viên Bộ Chính trị đã phải rời ghế nhưng việc chiếm
giữ chiếc ghế đó, dù chỉ hai tháng, cùng với việc các ông quyền cao chức trọng
khác trong đảng cầm quyền bất chấp những ngang trái và hậu quả tệ hại, giành
chiếc ghế quyền lực cho con cái họ đã cho thấy những người được dân cho hưởng
ơn cao, lộc lớn để họ chăm lo cho dân, tận tụy với nước nhưng họ chỉ biết bản
thân họ và con cái họ, họ chẳng còn biết đến nhân dân, đất nước. Sự việc họ
giành bằng được chiếc ghế quyền lực cho con cái họ phải được gọi đúng tên là
tham nhũng, tham nhũng quyền lực.
Cả những quan chức hàng đầu của một thể chế, một hệ thống quyền lực Nhà nước
cũng thản nhiên tham nhũng, cả ông Thủ tướng Chính phủ hùng hồn tuyên bố chống
tham nhũng cũng đi đầu đôn đáo, hăm hở, mê mải tham nhũng, nêu tấm gương lớn
cho cả hệ thống quyền lực tham nhũng, tạo ra cả cơn lốc xoáy tham nhũng, tạo ra
một thời bạo liệt tham nhũng thì còn chống tham nhũng nỗi gì?
Trên thượng đỉnh đã ngang nhiên tư lợi, vô cảm và vô lương tâm với dân với nước
như vậy, bên dưới tội gì phải giữ mình, giữ lương tâm. Doanh nghiệp thuộc tập
đoàn kinh tế Nhà nước trúng thầu một dự án chỉ trên 32 tỉ đồng liền mua ngay
hai ô tô mà giá một chiếc ô tô đã trên 2,6 tỉ đồng tặng quan chức Nhà nước đứng
đầu tập đoàn chủ dự án. Người được tặng không thiếu ô tô sang trọng và tiền mua
ô tô quà tặng không phải là tiền túi của bất cứ ai mà chính là tiền của dân đầu
tư cho dự án. Dự án chỉ 32 tỉ đồng đã bị rút ra hơn 4 tỉ đồng mua ô tô tặng
nhau. Rồi còn bao nhiêu tỉ đồng rút ra chia nhau từ 32 tỉ đồng của dự án? Phung
phí đồng tiền chắt chiu của dân như vậy chính là một dạng tham nhũng. Ngang
nhiên tặng nhau quà biếu tham nhũng. Cả người cho và người nhận đều vô cảm, vô
lương tâm với đồng tiền chắt chiu của dân, đều nhởn nhơ, vô cảm hưởng thụ cuộc
sống giầu sang, thừa thãi trên đất nước xác xơ, trên cuộc sống lam lũ, thiếu thốn,
đói khổ của người dân!
Doanh nghiệp Nhà nước thua lỗ nhưng lương quan chức doanh nghiệp Nhà nước cứ ngất
ngưởng cả trăm triệu đồng tháng, cao gấp vài chục lần lương bác sĩ sớm khuya miệt
mài làm việc trong bệnh viện, cao gấp vài chục lần lương của những trí tuệ giảng
dạy đại học. Đồng lương đó không phải do họ tài giỏi làm ra mà là tài sản quốc
gia, là vốn liếng của doanh nghiệp, vốn liếng của Nhà nước, vốn liếng của nhân
dân. Đó là đồng lương tham nhũng. Quan chức các doanh nghiệp Nhà nước đều thản
nhiên và vênh váo nhận đồng lương tham nhũng đó dù doanh nghiệp họ điều hành thua
lỗ nặng nề, triền miên.
Tham nhũng quyền lực, tham nhũng của cải làm cho hết Vinashin đến Vinalines, rồi
Điện lực, Dầu khí, Than – Khoáng sản . . . những tập đoàn kinh tế được đầu tư lớn,
được ưu đãi đặc biệt, là trụ cột của ngôi nhà kinh tế đất nước đều thua lỗ, thất
thoát hàng trăm ngàn tỉ đồng, ngôi nhà kinh tế đất nước xác xơ, trống rỗng. Trống
rỗng cả nền tài chính đất nước. Trống rỗng cả lòng tin của người dân vào chính
quyền.
Lời hứa của danh dự, lời hứa của lịch sử cũng không thực hiện thì liêm sỉ đâu
còn nữa. Liêm sỉ của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng chìm nghỉm, mất hút trong
tham nhũng. Lời hứa của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thành lừa dối với nhân dân, dối
trá với lịch sử! Sự dối trá của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nêu tấm gương cho
xã hội. Cả xã hội dối trá. Dối trá là lẽ sống. Dối trá được coi trọng. Dối trá
lên ngôi thì sự trung thực không còn đất sống.
Điều tốt gọi điều tốt. Cấp trên là khuôn thước của cấp dưới. Quan chức Nhà nước
là khuôn thước của xã hội. Công chức Nhà nước nhìn tấm gương liêm khiết của
nhau cùng giữ mình vượt lên trên cám dỗ vật chất bất lương, cùng cúc cung, tận
tụy làm công bộc của dân, lo cho dân, để lại công trạng, để lại sự nghiệp rạng
rỡ cho nước. Đó là thời thịnh. Cái xấu gọi cái xấu. Quan chức rường cột của Nhà
nước đua nhau, hùa nhau làm điều xấu, vơ vét của nước, cướp đoạt lợi ích của
dân, làm lên một thời xấu xa, tồi tệ, đen tối, để lại vết nhơ muôn đời trong lịch
sử. Đó là thời suy.
Ngoài triệu chứng quan tham đua nhau vơ vét của nước, cướp bóc của dân, đàn áp,
tù đày, đánh giết dân, thời suy còn một triệu chứng điển hình nữa là quan tham
đã gây quá nhiều tội với nước, mắc quá nhiều nợ với dân liền vội vã lấy tiền của
nước, lấy mồ hôi và cả máu của dân xây những đền đài thờ tổ tiên, cúng thần phật,
cầu xin thần phật dung tha xá tội, cầu xin tổ tiên phù hộ độ trì giữ mãi được
ghế quan tham, cứ bền bỉ nhiều đời yên vị ăn trên ngồi trốc vơ vét và cướp bóc.
Thời nhà Lê suy tàn, đầu thế kỉ XVI, vua Lê Tương Dực chơi bời xa xỉ, trụy lạc
vô độ, đặt ra nhiều sắc thuế bóc lột dân, nhiều hình phạt độc ác đánh giết dân,
giết cả 15 thân vương trong triều. Trước tội ác quá lớn, Lê Tương Dực liền sai
kiến trúc sư tài hoa Vũ Như Tô xây điện 100 nóc, xây Cửu Trùng Đài nguy nga cầu
xin thần linh che chở.
Ngày nay Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng xây nhà thờ họ ở Rạch Giá, Kiên Giang, lớn gấp
trăm lần đền thờ Anh hùng Nguyễn Trung Trực cách đó vài bước chân, lớp lớp tòa
ngang dãy dọc như cung vua nhà Nguyễn ở cố đô Huế. Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh
Hùng xây nhà thờ họ Nguyễn Sinh trập trùng đền đài hoành tráng trên cả vùng đồi
núi mênh mông ở Nam Đàn, Nghệ An. Đó là những Cửu Trùng Đài của triều Cộng sản
Việt Nam đầu thế kỉ XXI.
Những Cửu Trùng Đài xây bằng tiền bạc và của cải thừa thãi, xây cả bằng sự vênh
váo, hợm hĩnh của quyền uy tưởng sẽ bền vững ngàn niên, vạn niên nhưng những Cửu
Trùng Đài xây trên sự tan hoang, kiệt quệ của đất nước, xây trên sự điêu linh,
lầm than của trăm họ, xây trên sự căm giận, phẫn nộ của người dân thì chỉ là những
lâu đài xây trên cát. Những Cửu Trùng Đài vạn niên đó chẳng bao lâu sau chỉ còn
bóng dáng trong câu ca dao mỉa mai của dân gian: Vạn niên là vạn niên nào
/ Thành xây xương lính, hào đào máu dân. Người dân nhìn những Cửu Trùng
Đài nguy nga chỉ thấy ở đó chất ngất của cải tham nhũng, chỉ thấy ở đó biểu tượng
của một thể chế, một triều đại đang xa dân diệu vợi, đang lao nhanh vào suy
vong không gì cứu vãn!
Thời thịnh hay suy là do chính những người nắm vận mệnh đất nước, nắm thời cuộc
quyết định. Quan chức của Đảng, quan chức Nhà nước từ trên xuống dưới đều suy đốn,
tham nhũng và dối trá đến như vậy, thời suy của Đảng cầm quyền, thời suy của nước
đã là hiển nhiên. Và ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã góp phần rất lớn, phần chủ
yếu làm nên thời suy đó cho Đảng cầm quyền, cho Nhà nước Cộng sản Việt Nam, để
lại vết hằn đau buồn, đen tối trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Dối trá lem lẻm. Tham nhũng hết vụ này đến vụ khác. Tham nhũng dây chuyền trong
cả hệ thống quyền lực Nhà nước. Kinh tế đổ vỡ. Xã hội rối loạn, bất an. Ở xã hội
dân chủ với Nhà nước của dân chứ không phải Nhà nước của Đảng, chỉ cần một vụ
việc trong những vụ việc tày đình trên, ông Thủ tướng đã phải tự từ chức. Ông
Thủ tướng thiếu lòng tự trọng, không từ chức, Quốc hội thực sự của dân cũng bỏ
phiếu phế truất ông. Nhưng ở ta, Nhà nước là của Đảng, Chính phủ của Đảng, Quốc
hội cũng của Đảng. Các quan chức Nhà nước tham nhũng đều là những nhà lãnh đạo
hàng đầu của Đảng, là những thế lực lớn trong Đảng. Người dân bị tham nhũng cướp
đoạt những lợi ích sống còn chỉ còn biết khoanh tay trông chờ Đảng cầm quyền
đóng cửa dàn xếp với tham nhũng trong nội bộ Đảng. Những quyền công dân cơ bản
để người dân tự vệ trước cường quyền, tham nhũng và bất công, người dân Việt
Nam cũng không có!
2. VIỆC LÀM: KHINH TRÍ TUỆ, TRỌNG
BẠO LỰC
Văn hóa bậc thấp, bậc phổ thông
cơ sở, ai cũng học được. Nhưng văn hóa bậc cao, bậc trí tuệ quí hiếm thì không
phải ai cũng có thể tiếp nhận. Phải có tâm thức văn hóa mới hướng tới trí tuệ,
mới tiếp nhận được trí tuệ. Chỉ những người có thể tiếp nhận được trí tuệ mới
biết quí trọng trí tuệ. Hai Thủ tướng lớp trước ông Dũng, Thủ tướng Võ Văn Kiệt
và Thủ tướng Phan Văn Khải đều biết quí trọng trí tuệ, biết sử dụng trí tuệ.
Nhận trọng trách Chủ tịch Hội đồng
Bộ trưởng (Thủ tướng Chính phủ) tháng tám, năm 1991, ông Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng Võ Văn Kiệt không có một bằng cấp, một chứng chỉ văn hóa nhưng phải là
người có tâm thức văn hóa ông mới nói được với lớp trẻ Sài Gòn trong đại hội
Đoàn của họ rằng: Thành phố soi thấy tương lai của mình rất sáng trên vầng
trán các em. Tâm thức văn hóa đó đã trân trọng mời những trí tuệ hàng đầu của đất
nước về khoa học kinh tế và khoa học quản lí Nhà nước vào Tổ Chuyên gia tư
vấn về cải cách Kinh tế và cải cách Hành chính mà ngôn ngữ hằng ngày vẫn gọi
là Tổ Tư vấn cải cách. Cả những chuyên gia kinh tế hàng đầu của chính quyền
Sài Gòn cũ cũng được tâm thức văn hóa Võ Văn Kiệt trực tiếp mời vào Tổ Tư
vấn cải cách.
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ
Văn Kiệt nêu những vấn đề của đường lối, chính sách kinh tế, xã hội đặt ra với Tổ
Tư vấn cải cách và công việc đối nội, đối ngoại của người đứng đầu Chính
phủ dù bận đến đâu, hằng tuần tâm thức văn hóa Võ Văn Kiệt vẫn giành thời gian
chân tình gặp gỡ, lắng nghe, tiếp nhận đề xuất giải pháp của Tổ Tư vấn cải
cách.
Thành lập năm 1993, đến năm 1996 Tổ
Tư vấn cải cách được bổ xung thêm những trí tuệ xuất sắc mới nổi lên và được
nâng cấp lên thành Tổ Nghiên cứu đổi mới Kinh tế, Xã hội và Hành chính với
tên gọi nôm na thường ngày là Tổ Nghiên cứu đổi mới. Đến năm 1998, Tổ
Nghiên cứu đổi mới lại được Thủ tướng Phan Văn Khải nâng cấp lên thành Ban
Nghiên cứu của Thủ tướng. Tổ chức tập hợp những trí tuệ, những lõi sáng của đất
nước được khai thác, sử dụng hiệu quả mới được hai người đứng đầu Chính phủ Võ
Văn Kiệt và Phan Văn Khải trân trọng và liên tiếp nâng cấp lên như vậy.
Tổ chức tập hợp những trí tuệ của
đất nước được hai tâm thức văn hóa Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải trân trọng như
vậy nhưng ông Nguyễn Tấn Dũng ngồi vào ghế Thủ tướng thì tổ chức tập hợp trí tuệ
đó liền bị xóa sổ ngay. Chỉ những người có thể tiếp nhận được trí tuệ mới biết
quí trong trí tuệ và làm theo trí tuệ. Giải tán Ban Nghiên cứu của Thủ tướng,
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng liền mời một viên tướng công an có nhiều thành tích
đàn áp dân chủ, nhân quyền làm đặc phái viên bên cạnh Thủ tướng, tư vấn cho Thủ
tướng.
Trong lịch sử Việt Nam cũng như lịch
sử thế giới từ xưa đến nay, ngay cả trong thời khốc liệt chiến tranh và đầy biến
động chính trị, ngay cả với những nhà độc tài khét tiếng như Adolf Hitler,
Iosif Stalin, Nicolae Ceausescu, Mobutu, chưa có người đứng đầu Chính phủ nào
phải dùng một viên tướng công an làm cố vấn thân cận, một công cụ bạo lực luôn
bên cạnh trong công việc như ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Luật pháp Việt Nam
cũng không có một điều khoản nào cho phép ông Thủ tướng được có cố vấn an ninh.
Cố vấn thân cận nhất là viên tướng công an, điều đó cho thấy Thủ tướng Dũng coi
trọng công cụ bạo lực như thế nào và công cụ bạo lực đó chính là tâm thức văn
hóa của ông Thủ tướng. Thay những trí tuệ trong Ban Nghiên cứu của Thủ tướng bằng
một viên tướng công an, một bạo lực Nhà nước, đất nước bị dẫn dắt vào con đường
bạo lực, đời sống dân sự bị công an hóa, bạo lực hóa!
Bị những nhóm lợi ích dẫn dắt, đất
nước đã chìm trong những tai họa của tham nhũng. Không có trí tuệ dẫn dắt, đất
nước lại chìm trong những tai họa đổ vỡ kinh tế. Khinh trí tuệ, trọng bạo lực,
bên cạnh Thủ tướng là viên tướng công an hằm hè nhìn xã hội dân sự qua lỗ tròn
của chiếc còng số tám, đất nước lại chìm trong bạo lực Nhà nước và ngột ngạt
tăm tối trong những lệnh cấm, những lệnh giới nghiêm trong đời sống tinh thần,
văn hóa!
Ban Nghiên cứu của Thủ tướng đã bị
giải tán. Nơi những trí tuệ được nói thẳng, nói thật, được đóng góp không còn nữa.
Những trí tuệ đích thực thôi đành về với dân gian. Những viện khoa học nọ, viện
khoa học kia thì nhiều lắm, bộ nào, ngành nào cũng có những viện khoa học sang
trọng, hoành tráng, mĩ miều với đông đảo viện sĩ lấp lánh học hàm, học vị nhưng
đó chỉ là nơi những người có bằng cấp khoa học chia nhau chức danh, chia nhau
ghế ngồi để lĩnh lương và để nghĩ ra những “đề tài khoa học” nhận tiền tỉ mồ
hôi nước mắt của dân về chia nhau. Nghiệm thu xong, chia tiền xong, “đề tài
khoa học” xếp vào ngăn kéo, lại hăm hở tìm “đề tài khoa học” mới. Các Bộ, các Tổng
cục của hệ thống hành chính Nhà nước có viện khoa học thì các Ban của tổ chức Đảng
ngang cấp Bộ cũng phải có Viện khoa học. Viện khoa học Dân vận. Viện khoa học lịch
sử Đảng. Viện khoa học Mác Lê nin . . .
Những viện khoa học mĩ miều đó
nhiều như cây trong công viên, mỗi viện hằng năm ngốn hàng chục, hàng trăm tỉ
tiền thuế của dân chỉ để làm dáng thì cứ bền bỉ tồn tại và liên tục phát triển,
viện khoa học mẹ đẻ ra viện khoa học con. Đó là những viện khoa học chỉ có danh
khoa học, chỉ có học hàm, học vị khoa học mà không có trí tuệ khoa học. Không
có trí tuệ khoa học để làm việc nên họ chỉ còn biết mang danh khoa học ra bán.
Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng nhưng danh khoa học của họ độc quyền bán cho
Đảng của họ và bán cho Nhà nước của Đảng được giá tới bạc tỉ!
Những nhà khoa học chân chính, những
trí tuệ đích thực không thể vô cảm và bất lương như vậy. Người thực sự có trí
tuệ cần mang trí tuệ đóng góp cho cuộc sống và trí tuệ gọi trí tuệ, lương tâm gọi
lương tâm, những trí tuệ và lương tâm đó gọi nhau, tập hợp lại lập lên viện
Nghiên cứu Phát triển, IDS. Không nhận một xu từ tiến thuế của dân, trí tuệ
đích thực là tài sản quí, là vốn liếng lớn sẽ tạo ra tiền bạc, của cải cho đất
nước, tạo ra tiền bạc của cải để phát triển Viện. Nhưng với một ông Thủ tướng
khinh trí tuệ, trọng bạo lực, vừa nhận chức người đứng đầu Chính phủ, ông Thủ
tướng đó liền kí lệnh đuổi những trí tuệ trong Ban Nghiên cứu của Thủ tướng đi
cho khuất mắt thì viện IDS lại là cái gai ông phải dẹp bỏ, ông liền kí quyết định
97/2009QĐ-TTg trong đó có những điều khoản vô hiệu IDS, làm cho IDS không thể
hoạt động theo tiêu chí của IDS. IDS liền phải tự giải thể!
Những dự án tham nhũng chiếm hàng
trăm, hàng ngàn hecta đất, cướp đất của nhiều làng. Dân nhiều làng phải đội đơn
đi khiếu kiện. Hàng trăm gia đình mất đất. Hàng ngàn người bơ vơ. Mỗi gia đình
một cảnh ngộ, một nỗi đau. Mỗi người một nỗi oan khiên, không ai có thể đại diện
cho ai. Dân đen, thân phận con ong cái kiến, từng tiếng kêu rời rạc, yếu ớt, lạc
lõng không ai đoái hoài. Hàng trăm, hàng ngàn người cùng kêu nỗi oan khiên dậy
đất của một thời đầy ngang trái oan khiên mới mong động đến cửa quan thì ông Thủ
tướng hùng hồn chống tham nhũng bằng ngôn từ lại mau lẹ đứng về phía quan tham
lạnh lùng kí Nghị định 136/2006 cấm dân khiếu kiện tập thể!
Cách mạng công nghiệp chấm dứt nếp
sống bầy đàn, không có cá nhân của nền sản xuất nông nghiệp thô sơ, cho người
dân bình thường ý thức về cá nhân trong cuộc đời. Cách mạng dân chủ tư sản cho
người dân quyền con người. Không có cách mạng công nghiệp, chưa có cách mạng
dân chủ tư sản, xã hội Việt Nam nôn nóng, hối hả bước vào công nghiệp hóa với
những con người vẫn mang tâm lí, nếp sống và thói quen của nền sản xuất nông
nghiêp thô sơ, tâm lí, nếp sống an phận và cam chịu. Dù an phận và cam chịu
nhưng con giun xéo mãi cũng quằn, những nông dân không còn ruộng đất trở thành
công nhân trong những nhà máy của những ông bà chủ tư bản phần lớn là người nước
ngoài. Bị chủ tư bản bóc lột tàn tệ, những công nhân không còn cam chịu được nữa
phải bảo nhau, gọi nhau tổ chức đình công đòi quyền sống.
Công nghiệp hóa không phải chỉ là
máy móc công nghệ, thiết bị kĩ thuật. Công nghiệp hóa trước hết phải là con người,
là giải phóng con người, là mối quan hệ công bằng, bình đẳng giữa người với người.
Công nghệ kĩ thuật là điều kiện vật chất và giải phóng con người là điều kiện
xã hội của công nghiệp hóa. Bước chân công nhân đình công là bước đi tất yếu của
xã hội Việt Nam vào công nghiệp hóa, là bước tiến của xã hội Việt Nam.
Những cuộc đình công vừa chính
đáng và cần thiết giành quyền sống của người lao động, vừa là sự trưởng thành của
xã hội Việt Nam nhưng Thủ tướng Dũng lại sốt xắng đứng ra bảo vệ sự bóc lột tàn
nhẫn của những ông chủ, bà chủ tư bản bằng việc kí nghị định 11 và 12/ 2008 cấm
công nhân đình công! Cấm công nhân đình công đòi quyền sống, Thủ tướng Dũng đã
ngăn chặn bước tiến của xã hội Việt Nam, kìm hãm xã hội Việt Nam mãi mãi dừng lại
trong sự bóc lột man rợ của chủ nghĩa tư bản hoang dã.
3. NGƯỜI DÂN BỊ KHINH RẺ. QUYỀN
CÔNG DÂN KHÔNG ĐƯỢC NHÌN NHẬN. CUỘC SỐNG BẤT AN. TÍNH MẠNG MONH MANH
Theo tấm gương người đứng đầu
Chính phủ, cả hệ thống quyền lực Nhà nước cứ mặc sức tham nhũng và hành dân.
Người dân chỉ được cam chịu chấp nhận. Dân có tiếng nói phản kháng với cái sai,
cái ác liền có sự trả lời của công an, tòa án và nhà tù! Mọi quyền Con Người cơ
bản của người dân đều bị Cấm! Cấm! Và Cấm! Chưa bao giờ pháp luật bị sử dụng
tùy tiện với dân, bạo lực Nhà nước khắc nghiệt, tàn nhẫn với dân như thời Thủ
tướng Dũng.
Tiến sĩ luật học Cù Huy Hà Vũ kiện
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lạm quyền, cho triển khai dự án bô xít Tây Nguyên
không theo đúng qui trình pháp luật, gây thiệt hại nặng nề cho dân, rước tai họa,
nguy nan cho nước. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật là hiện thực bình
thường ở mọi nước trên thế giới từ mấy trăm năm nay nhưng ở Nhà nước Việt Nam Cộng
sản cho đến tận thế kỉ 21 của văn minh tin học, của thế giới phẳng, vẫn chưa có
được điều bình thường đó. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật chỉ là
dòng chữ vàng son lấp lánh ghi trong Hiến pháp Việt Nam, chỉ để làm đẹp, làm
sang cho Hiến pháp Việt Nam. Còn trong thực tế xã hội Việt Nam hoàn toàn không
có sự bình đẳng nhân văn đó. Đơn kiện ông Thủ tướng của tiến sĩ Vũ hoàn toàn hợp
pháp, là tiếng nói chính đáng, khẩn thiết của nhân dân, của đất nước. Hai cấp
tòa, cấp thành phố và cấp tối cao, đều từ chối, không dám vào cuộc thụ lí đơn
kiện của tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ nhưng công an thì quyết liệt vào cuộc, rình rập,
bám sát người đứng đơn kiện từng bước đi, từng cuộc điện thoại.
Tiến sĩ Vũ đi công việc, vào Sài
Gòn, ở khách sạn. Công an liền xông vào khách sạn và trong tay công an có ngay
hai bao cao su nhầy nhụa, tạo chứng cớ hồ đồ, vu vơ, áp đặt, bẩn thỉu, thấp hèn,
mờ ám và tàn bạo để bắt tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ. Sự mờ ám, thấp hèn và tàn bạo
càng bộc lộ rõ trong phiên tòa xử người nói tiếng nói dõng dạc, đàng hoàng,
chính đáng và hợp pháp của nhân dân, của đất nước.
Hiến pháp cho người dân quyền tự
do ngôn luận, quyền tham gia quản lí Nhà nước và xã hội, quyền thảo luận các vấn
đề của Nhà nước, quyền kiến nghị với cơ quan Nhà nước. Những bài viết và nói
công khai, đàng hoàng về những chính sách sai lầm của Nhà nước, về những việc
làm tội lỗi của quan chức Nhà nước của tiến sĩ Vũ là hợp pháp và vô tội. Chỉ có
tội khi tòa án chứng minh được người viết và nói không đúng sự thật. Không chứng
minh được điều đó, không xét, tòa án chỉ xử, chỉ buộc tội. Áp đặt tội tuyên
truyền chống Nhà nước cho những bài viết và lời nói chính đáng, hợp pháp của tiến
sĩ Vũ chỉ ra những sai lầm và tội lỗi của Nhà nước, tòa án đã đồng nhất Nhà nước
với sai lầm và tội lỗi.
Mờ ám, thấp hèn và tàn bạo, phiên
tòa công khai mà người dân đến dự tòa thì bị đàn áp, bắt bớ. Mờ ám, thấp hèn và
tàn bạo, trong phiên tòa, bị cáo và luật sư đều bị chặn họng, không được tranh
tụng. Giữa thời văn minh rực rỡ của loài người, phiên tòa xử tiến sĩ Cù Huy Hà
Vũ chỉ là sự tái hiện lại cảnh đấu tố man rợ, mông muội thời cải cách ruộng đất.
Ngồi ghế quan tòa không còn là sự công minh, nhân đạo của luật pháp và công lí
mà là sự nhỏ nhen, ngạo mạn, nhâng nháo, hùng hổ, hằn học hận thù của công cụ bạo
lực!
Mờ ám, thấp hèn và tàn bạo, hai
bao cao su tởm lợm là chứng cứ duy nhất để bắt khẩn cấp tiến sĩ Vũ nhưng đến
phiên tòa, quan tòa cũng nhục nhã không dám nhắc đến chứng cứ là hai bao cao su
ô nhục. Dù không được đưa ra, không được nhắc đến trong phiên tòa mờ ám, thấp
hèn và tàn bạo nhưng hai bao cao su nhầy nhụa, ô nhục còn mãi mãi chình ình và
bốc mùi tanh tưởi trong lịch sử tư pháp của Nhà nước Việt Nam Cộng sản, còn mãi
mãi nhầy nhụa và bốc mùi ô uế trong lịch sử cầm quyền của đảng Cộng sản Việt
Nam.
Dựa vào quyền uy để tham nhũng, dựa
vào bạo lực để bưng bít sự thật, để bóp chết những tiếng nói trung thực, những
vụ bắt bớ phi pháp, những phiên tòa mờ ám, thấp hèn và tàn bạo liên tục diễn ra
dưới thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Duy trì đảng cầm quyền đứng trên
pháp luật để tham nhũng, bộ máy công cụ công an của Thủ tướng Dũng đối xử với
những người yêu nước vô cùng tàn nhẫn, mất tính người. Bắt cóc trái pháp luật,
giam cầm phi pháp bà Bùi Thị Minh Hằng, khủng bố tinh thần, hủy hoại thân xác để
bịt tiếng nói yêu nước của người đàn bà quả cảm. Nhưng bộ máy công cụ bạo lực của
Thủ tướng Dũng càng độc ác, man rợ thì tiếng nói lương tâm của người phụ nữ Việt
Nam quả cảm, tiếng của lịch sử Việt Nam càng lay động mạnh mẽ những trái tim Việt
Nam, càng vang xa ra thế giới văn minh, tố cáo với thế giới văn minh về một Nhà
nước bạo lực, chà đạp luật pháp, chà đạp quyền Con Người.
Mờ ám, thấp hèn và tàn bạo với những
tiếng nói trung thực và yêu nước là đặc trưng những phiên tòa thời Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng. Những phiên tòa đó sẽ đi vào lịch sử với tên gọi Phiên – Tòa –
Nguyễn – Tấn – Dũng như lịch sử đã ghi nhận những phiên tòa đưa cổ những người
Cộng sản vào máy chém theo luật 10/59 dưới thời ông Ngô Đình Diệm cầm quyền ở
miền Nam Việt Nam là Phiên – Tòa – Ngô – Đình – Diệm!
Mức độ mờ ám, thấp hèn và tàn bạo
của những Phiên – Tòa – Nguyễn – Tấn – Dũng càng ngày càng tăng và đỉnh điểm về
sự mờ ám, thấp hèn, tàn bạo của Phiên – Tòa – Nguyễn – Tấn – Dũng là phiên tòa
xử ba nhà báo nồng nàn yêu nước và lẫm liệt khí phách đấu tranh đòi tự do, đòi
quyền Con Người, nhà báo Nguyễn Văn Hải, nhà báo Tạ Phong Tần, nhà báo, luật sư
Phan Thanh Hải.
Ông tướng công an là cố vấn kè kè
bên cạnh ông Thủ tướng nên trong xã hội, công an cũng luôn kè kè bên người dân,
công an trở thành chủ thể, là bộ mặt, là tiếng nói của chính quyền với người
dân và cũng là hung thần, là hiện thân của cái ác trong cuộc sống.
Những trí thức viết Kiến nghị gửi
lãnh đạo Nhà nước, những nơi nhận Kiến nghị đều im lặng. Những người lãnh đạo
Nhà nước coi dân, coi trí thức như hư vô, như không có, nếu có cũng chỉ là bầy
đàn, bầy ong bầy kiến, không đáng trả lời. Lãnh đạo Nhà nước không thèm trả lời
Kiến nghị của trí thức nhưng công an thì đến từng nhà người kí Kiến nghị dằn mặt,
răn đe.
Công an chặn cửa không cho người
dân ra khỏi nhà đi biểu tình chống Đại Hán cướp biển đảo Việt Nam, giết dân
lành Việt Nam. Công an chốt chặn suốt đêm ngày, ngày này qua ngày khác quanh
nhà người có chính kiến khác biệt với chính quyền, đi đâu một bước công an bám
theo một bước. Người có tiếng nói khác biệt với chính thống vẫn là công dân mà
bị công an ngang nhiên tước đoạt quyền công dân, trở thành người tù ngay trong
nhà mình, là người tù ngay trong cuộc sống đời thường quí giá của cuộc đời.
Công an vô cớ xông vào nhà khám xét, bắt người có chính kiến khác biệt vất lên
ô tô chở về đồn công an như chở một đồ vật. Công an bắt người dân yêu nước biểu
tình chống Đại Hán xâm lược rồi vật ngửa ra, khiêng lên ô tô như khiêng heo cho
một công an khác đứng trên bậc cửa ô tô đạp tới tấp vào mặt người dân yêu nước.
Hành xử với dân như vậy là hành xử
của đám lưu manh, côn đồ. Và lưu manh, côn đồ thứ thiệt cũng được công an sử dụng
như công cụ bạo lực Nhà nước để khủng bố, đàn áp dân. Tự xưng là thương binh
xông vào cơ quan Nhà nước hành hung cán bộ Nhà nước, chửi tục và tụt quần ăn vạ
giữa cơ quan Nhà nước thì chỉ có lưu manh, côn đồ mới hành xử như vậy. Người
dân bình thường cũng đủ tỉnh táo nhận ra đám người tự nhận thương binh làm trò
côn đồ đó theo lệnh của ai. Bảy trăm cơ quan ngôn luận Nhà nước làm ngơ trước
những biểu hiện của xã hội đang bị bạo lực hóa, côn đồ hóa nhưng có tờ báo lớn
của chính thống lại lu loa lên án người bị nạn, bị côn đồ gây sự đe dọa!
Chế tạo ra những thứ hôi thối, bẩn
thỉu ném lên tường nhà, đổ vào cửa nhà dân. Đổ sơn, đốt cổng nhà dân . . . Những
người dân phải hứng chịu trò côn đồ bẩn thỉu đó là những người đã từng là tù
chính trị trong nhà tù Cộng sản, đã nhiều lần bị công an vô cớ bắt giữ, khám
xét nên người dân đều biết rõ ai đã ra lệnh cho lũ côn đồ làm trò bẩn thỉu đó!
Công an đánh chết dân ngoài đường,
đánh chết dân trong đồn công an diễn ra khắp nơi, ngày càng nhiều. Doanh nghiệp
nước ngoài bị mất một số sản phẩm trong kho. Anh công nhân theo dõi việc xuất sản
phẩm được mời lên đồn công an hôm trước thì hôm sau đã là cái xác không hồn.
Cái chết của anh công nhân cao trên một mét bảy, nặng trên bảy mươi cân được
công an giải thích là do anh tự treo cổ bằng sợi dây điện thoại mỏng manh! Anh
công nhân mới cưới vợ trẻ, hai vợ chồng trẻ có việc làm ổn định, có cuộc sống vững
vàng, đã mua được đất chuẩn bị xây ngôi nhà mơ ước để đón những đứa con của hạnh
phúc và điều quan trọng là anh đã khẳng định mình vô tội trong vụ mất sản phẩm
của doanh nghiệp và đang chứng minh sự vô tội đó vậy mà viện Kiểm sát tối cao
sau ít ngày “điều tra” lấy lệ lại xưng xưng kết luận là anh công nhân tự tìm đến
cái chết vì hối hận! Đó là kết luận của những thế lực liên kết tạo thành những
nhóm lợi ích, kết luận của bạo lực Nhà nước, không phải là kết luận của công
lí, của lương tâm , của lẽ phải.
Thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bạo
lực đã thay công lí. Cuộc sống chỉ có Bạo lực! Bạo lực! Và Bạo lực! Công lí như
mặt trời trong đêm, không còn có trong cuộc sống nữa. Bóng công an, bóng bạo lực,
bóng tối Trung Cổ đè xuống cuộc sống. Công an giết dân. Côn đồ giết dân. Mạng sống
của người dân quá mong manh. Xã hội đầy nhiễu nhương, bất an.
Cuộc sống bị công an hóa, bạo lực
hóa và Nhà nước đi đầu nêu tấm gương sử dụng bạo lực trong nhiều mối quan hệ
dân sự với dân. Đại tá, giám đốc công an thành phố chỉ huy cuộc hành quân binh
chủng hợp thành, công an và quân đội phối hợp, bài binh bố trận như một trận
đánh sống mái với quân thù, bao vây, nã súng vào ngôi nhà đơn sơ, chơ vơ trên
bãi biển chỉ có đàn bà và trẻ con của gia đình anh nông dân Đoàn Văn Vươn ở
Tiên Lãng, Hải Phòng. Ba ngàn cảnh sát chiến đấu của Bộ Công an cùng lực lượng
công an huyện, công an tỉnh, áo giáp, tay khiên, tay súng trùng trùng đội ngũ, ầm
ầm ra quân, trấn áp, xua đuổi vài trăm nông dân tay không, đầu trần, chân đất ở
Văn Giang, Hưng Yên. Bạo lực Nhà nước được huy động cao nhất giành mảnh đất sống
của người nông dân giao cho nhà tư bản để họ kinh doanh làm giầu trên sự khốn
cùng của những người nông dân đã góp xương máu mồ hôi dựng lên Nhà nước này.
Hàng chục người dân lương thiện đã bị công an đánh chết trong các đồn công an
trên cả nước khi người dân bị công an bắt chỉ vì những lỗi nhỏ trong sinh hoạt
như đi xe máy không đội mũ bảo hiểm, to tiếng cãi nhau với người thân, với hàng
xóm . . .
Đau xót và tủi nhục cho nền văn
minh Sông Hồng rực rỡ và cho mảnh đất Thăng Long – Hà Nội ngàn năm Văn hiến là
chính ở trung tâm văn minh Sông Hồng, chính ở kinh đô ngàn năm văn hiến lại là
nơi người dân bị công an đánh chết nhiều nhất, chết thương tâm nhất. Giữa thủ
đô Hà Nội công an treo cao cái slogan chữ lớn bầy tỏ lòng trung thành của công
an với đảng Cộng sản: Công an nhân dân chỉ biết còn đảng còn mình, dưới
cái slogan ấy nhiều người dân Hà Nội đã bị công an đánh chết thê thảm: Ngày 21.
11. 2009, anh Nguyễn Mạnh Hùng, 33 tuổi bị đánh chết trong trại tạm giam của
công an quận Hà Đông, Hà Nội. Chỉ ba tháng sau, ngày 21. 1. 2010, anh Nguyễn Quốc
Bảo, 33 tuổi, bị đánh chết trong trại tạm giam của công an quận Hai Bà Trưng,
Hà Nội. Năm tháng sau, ông Nguyễn Phú Trung, 41 tuổi bị hai công an xã Thủy
Xuân Tiên, huyện Chương Mĩ, Hà Nội đánh chết. Tám tháng sau, ngày 28. 2. 2011,
ông Trịnh Xuân Tùng, 53 tuổi, bị trung tá Nguyễn Văn Ninh, công an phường Thịnh
Liệt, quận Hoàng Mai, Hà Nội đánh gãy cổ ở bến ô tô Giáp Bát dẫn đến cái chết
trong đau đớn. Đau đớn cho người đang chờ chết, càng đau đớn gấp bội cho người
sống còn lương tâm. Người dân Hà Nội còn chưa nguôi ngoai, chưa thể vơi nỗi căm
phẫn ghê tởm trước sự độc ác, nhẫn tâm giết người của viên trung tá công an
Nguyễn Van Ninh thì ngày 30. 8. 2012, công an xã Kim Nỗ, huyện Đông Anh, Hà Nội
ngay trong buổi chiều bắt giam ông Nguyễn Mậu Thuận, 54 tuổi, vì xích mích với
hàng xóm, đã đánh chết ông Thuận ngay trong trụ sở công an xã!
Nhà nước nào, xã hội đó. Nhà nước
bạo lực tất tạo ra xã hội bạo lực. Những va chạm xích mích nhỏ từ trong gia
đình đến ngoài xã hội đều giải quyết bằng bạo lực, bằng máu, bằng sự tước đoạt
mạng sống của nhau. Cha giết con. Vợ giết chồng. Anh giết em. Người yêu giết
người yêu . . . xảy ra hàng ngày trên khắp đất nước. Những cuộc thanh toán đẫm
máu thường xuyên xảy ra trên đường phố, trong làng quê. Chú bé Lê Văn Luyện
chưa đến tuổi thành niên lạnh lùng vung dao giết cả nhà bốn người chủ tiệm vàng
để vơ một nắm vàng. Thời bạo lực Nguyễn Tấn Dũng đã sản sinh ra tội ác Lê Văn
Luyện.
Đất nước của những bài dân ca, của
những câu ca dao, thành ngữ chan chứa tình yêu thương: Thương Người như thể
thương thân, bây giờ là đất nước của bạo lực, hận thù, của máu và nước mắt! Đất
nước Việt Nam hiền hòa, gấm vóc của tôi ơi, có bao giờ đau đớn và tối tăm thế
này chăng?
Văn minh tin học đã mang lại cho
Con Người cuộc sống kì diệu, Với văn minh tin học, Con Người làm được những việc
mà trước đây chỉ có thần thánh trong những câu chuyện cổ tích, thần thoại mới
làm được. Con Người đã trở thành thần thánh. Được sống với những tiện nghi kĩ
thuật do công nghệ thông tin mang lại, Con Người còn được sống trong những giá
trị nhân văn cao cả. Quyền Con Người đã là phổ quát, là đương nhiên ở mọi xã hội.
Nhưng trên đất nước Việt Nam thân yêu của tôi với ông Thủ tướng khinh trí tuệ,
trọng bạo lực, giữa kỉ nguyên văn minh tin học, người dân Việt Nam vẫn chưa được
sống kiếp Người, vẫn chỉ là bầy đàn, bầy ong, bầy kiến, vẫn phải sống trong bạo
lực Trung Cổ. Quyền Con Người bình dị vẫn chỉ là thứ xa xỉ, vẫn là nỗi khao
khát, mơ ước của người dân Việt Nam!
Tôi viết trong nghẹn ngào, đến
đây nước mắt đã làm nhòe tất cả, tôi không thể viết được nữa!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét