Đặng Khương chuyển ngữ
31/10/2012
Hình bên: Tàu Nhật Bản và Trung Quốc trong khu vực quanh quần đảo Senkaku. Ảnh: Associated Press
Vụ tranh chấp biển đảo giữa Trung Quốc và Nhật Bản liên quan
đến quần đảo Senkaku (Điếu Ngư) đang bước vào tháng thứ hai. Cuộc đối đầu hiện
nay lại nguy hiểm hơn những gì đang được nhiều người chứng kiến. Những hành vi
trong quá khứ của Trung Quốc liên quan đến các vụ tranh chấp lãnh thổ khác chứng
minh lý do tại sao những bế tắc tại Senkaku là tiền đề để vụ này có thể bùng nổ.
Kể từ năm 1949, Trung Quốc đã tham gia vào 23 vụ tranh chấp
lãnh thổ với các nước láng giềng trên đất liền và trên biển. Mười bảy vụ trong
số đó đã được giải quyết êm thỏa, thường là thông qua các hiệp định thỏa hiệp
giữa các nước. Tuy nhiên, Trung Quốc đã sử dụng vũ lực sáu lần trong các vụ
tranh chấp này. Và đó là những trường hợp tương tự nhất đối với bế tắc tại
Senkaku.
Thông thường thì Trung Quốc chỉ sử dụng vũ lực trong các vụ
tranh chấp lãnh thổ với các nước láng giềng có lực lượng quân sự mà họ có khả
năng đối phó. Chúng bao gồm các cuộc chiến tranh hoặc các vụ đụng độ lớn với Ấn
Độ, Nga và Việt Nam (nhiều lần), cũng như các cuộc khủng hoảng liên quan đến
Đài Loan. Các quốc gia này có khả năng kiểm soát lớn nhất đối với những tham vọng
lãnh thổ của Trung Quốc.
Trong các vụ tranh chấp với những quốc gia yếu hơn,
như Mông Cổ hay Nepal, thì Bắc Kinh đã né tránh đề cập đến vũ lực vì họ có thể
sử dụng sức mạnh [quân sự] trong các cuộc đàm phán. Hiện nay, Nhật Bản là hàng
xóm hàng hải mạnh nhất đối với Trung Quốc, với một lực lượng hải quân hiện đại
và đội ngũ lính tuần duyên khá lớn.
Trung Quốc cũng đã thường xuyên sử dụng vũ lực trong các
tranh chấp liên quan đến biển đảo gần bờ của họ như quần đảo Senkaku. Dọc theo
biên giới gần đất liền, Trung Quốc đã ụng sử dụng vũ lực chỉ 1/5 trong tổng số
16 vụ tranh chấp. Ngược lại, một nữa các vụ còn khác thì Trung Quốc đã sử dụng
vũ lực đối với 4 hòn đảo tranh chấp. Các quần đảo thường được coi là có giá trị
nhiều hơn vì các điều kiện chiến lược, quân sự và kinh tế bởi chúng ảnh hưởng đến
an ninh đường biển và có thể chứa đựng nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên, khí
đốt và ngư trường.
Ngoài ra, Trung Quốc đã chủ yếu sử dụng vũ lực để củng cố vị
trí của họ, đặc biệt tại những nơi mà họ chiếm rất ít hoặc thậm chí là không có
chủ quyền, điều này có thể giúp họ tuyên bố chủ quyền sau khi chiếm đoạt chúng.
Ví dụ như năm 1988, Trung Quốc đã đụng độ với Việt Nam và sau đó họ đã chiếm
sáu rạn san hô, một phần trong quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.
Trung Quốc đã tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa trong nhiều thập kỷ,
nhưng họ không kiểm soát được bất kỳ một phần đất nào cho đến khi họ chiếm đóng
khu vực này.
Trong trường hợp Trung Quốc đã kiểm soát được một phần lãnh
thổ có tranh chấp, chẳng hạn như trường hợp tranh chấp biên giới với
Kazakhstan, thì phía Trung Quốc có vị thế mạnh mẽ hơn, do đó họ ít sử dụng vũ lực
để chiếm đoạt. Nhưng trường hợp ở Biển Hoa Đông, Trung Quốc hiện không nắm giữ
bất kỳ một phần chủ quyền nào tại quần đảo Senkaku. Quần đảo này hiện đang thuộc
quyền kiểm soát của Nhật Bản.
Quan trọng nhất, Trung Quốc thường sử dụng vũ lực trong các
vụ tranh chấp lãnh thổ giữa các thời kỳ mà chế độ của họ suy yếu nhất, vì các
nhà lãnh đạo hướng tới động lực lớn hơn là giải quyết vấn đề nội bộ: Họ tin rằng
các thành phần đối lập tìm cách tận dụng thời điểm khủng hoảng trong nước, và rằng
một phản ứng yếu hoặc hạn chế có thể làm gia tăng những thành phần bất mãn [chống
lại chế độ].
Các lãnh đạo Trung Quốc hiện nay có thể cảm thấy nhiều áp lực
vì một số lý do: tranh chấp nội bộ giữa các đảng viên ưu tú cao cấp ở thượng tầng trong Đảng Cộng sản đang cầm quyền; một nền kinh tế chậm chạp làm suy yếu tính
hợp pháp của Đảng Cộng sản Trung Quốc; và quá trình chuyển đổi quyền lực từ thế
hệ này sang thế hệ lãnh đạo kế tiếp. Những yếu tố này làm tăng giá trị của việc
sử dụng vũ lực nhằm báo hiệu cách giải quyết đối với Nhật Bản và cả công chúng
Trung Quốc. Họ cũng làm giảm thiện chí thỏa hiệp của Bắc Kinh, hay một cách
khác là Trung Quốc không muốn khoan nhượng.
Đối với người Trung Quốc, nước cờ của Nhật Bản tại Senkaku
trông giống như Nhật Bản đang cố gắng tận dụng những khó khăn của Trung Quốc.
Những bế tắc hiện nay đã bắt đầu hồi tháng Tư, khi Thống đốc Tokyo Shintaro
Ishihara, người được biết là có quan niệm dân tộc chủ nghĩa, đã công bố kế hoạch
mua lại ba trong những hòn đảo từ chủ sở hữu người Nhật. Tuyên bố của ông
Ishihara được đưa ra chỉ vài ngày sau khi Bắc Kinh đình chỉ tất cả những chức vụ
của Ủy viên Bộ Chính trị Bạc Hy Lai trong Đảng Cộng sản Trung Quốc – nhân vật
được biết đến như một đảng viên ưu tú tại Trung Quốc trong hơn hai thập kỷ qua.
Chính sách ngoại giao của Trung Quốc đã trở nên cứng rắn hơn
giữa lúc tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước này bắt đầu chậm lại nhanh hơn so
với dự kiến. Đây là một điều mà các lãnh đạo Bắc Kinh rất lo lắng. Sau đó, Thủ
tướng Nhật Bản Yoshihiko Noda đã công bố quyết định mua lại hòn đảo này hôm
tháng Bảy nhân dịp ngày kỷ niệm sự cố Marco Polo Bridge năm 1937, đánh dấu ngày
Nhật Bản chiến thắng Trung Quốc. Vụ mua bán này đã được hoàn thành trong tháng
Chín, chỉ vài ngày trước ngày kỷ niệm cuộc xâm lược của Nhật Bản tại Mãn Châu
vào năm 1931.
Cuối cùng, các yếu tố gây mất ổn định trong vụ bế tắc
Senkaku khác là cả hai đều đang dính vào các tranh chấp với những nước khác. Tổng
thống Hàn Quốc Lee Myung-bak mới đây đã phá vỡ truyền thống và trở thành lãnh đạo
đầu tiên đến thăm khu vực tranh chấp tại đảo Dokdo (Takeshima), nơi đang được
Hàn Quốc kiểm soát và tranh chấp với phía Nhật Bản. Trong khi đó, Trung Quốc
đang đôi co với Việt Nam và Philippines ở Biển Đông. Tokyo và Bắc Kinh đều có
thể kết luận rằng bất cứ ai chiếm ưu thế tại quần đảo Senkaku sẽ có cơ hội tốt
hơn để tuyên bố chủ quyền tại những nơi có tranh chấp khác.
Lịch sử không phải là định mệnh. Trung Quốc đã không sử dụng
vũ lực trong các vụ tranh chấp lãnh thổ trong hơn 20 năm qua. Những căng thang
đang leo thang tại quần đảo Senkaku có thể tránh được. Tuy nhiên, tình hình hiện
nay là đầy nguy hiểm. Nếu một sự cố nghiêm trọng xảy ra liên quan đến các tàu
chính phủ giữa hai nước thì đây có thể là một cuộc khủng hoảng thực sự mà kết
quả không thể báo trước được.
Ông Fravel là giáo sư khoa học chính trị và là thành viên của
Chương trình Nghiên cứu An ninh tại Học viện Công nghệ Massachusetts (MIT). Ông
là tác giả của cuốn sách “Biên giới mạnh mẽ, Quốc gia an toàn: Hợp tác và xung
đột trong các tranh chấp lãnh thổ của Trung Quốc” do Princeton xuất bản năm
2008 (Strong Borders, Secure Nation: Cooperation and Conflict in China’s
Territorial Disputes).
© Bản tiếng Việt TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC 2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét