Nối gót người xưa

…. nối gót người xưa
Vì hiểm họa mất nước cùng những khổ đau không ngừng của dân tộc, vì những xót xa quằn quại triền miên của quê hương, vì những máu xương đổ xuống để tạo dựng những trang sử oai hùng đánh đuổi ngọai xâm của tiền nhân, của cha anh, của bè bạn,
Chúng Ta
Hãy đứng lên nhận lãnh trách nhiệm
Hãy đạp lên những sợ hãi mà cùng nhau bước tới, bước tới. Đọc tiếp

TÀI LIỆU header


TÀI LIỆU

Date




_____________________________




TRƯ CUỒNG, LỜI CẢNH BÁO 30 NĂM

Hoàng Hưng

30 năm, đọc lại Trư cuồng, cảm xúc vẫn như lần đầu. Lần đầu, chuyến đi Hà Nội mùa thu 1982 đầy sự cố, trong căn nhà nhỏ bên dòng Kim Ngưu đen và thối anh trao cho tôi tập bản thảo viết tay mới chỉ lưu truyền trong một nhúm bạn chí cốt. Cuốn truyện đã làm tôi mất ngủ.

Chỉ riêng những trang tả thực cảnh sống thảm thương của một gia đình nhà văn – nhà báo nháo nhác xoay quanh cái chuồng lợn, khi sức khỏe và sự tăng trọng từng ngày của lợn là mục tiêu sống của cả nhà, lũ lợn “nhai gau gáu” hết xương ông Tchekhov đến sọ ông Dos, “nỗi lợn” làm người chồng thành bất lực trên giường… đã đủ sức đánh gục người đọc bởi sự chân thực đầy cảm xúc những trải nghiệm sống của cây bút già dặn.

Những trang sử – văn một thời cười ra nước mắt khi cả Hà Nội lao vào nuôi lợn như con đường duy nhất thoát đói nghèo (không chỉ Hà Nội, ở Sài Gòn lúc ấy nhiều hộ ở chung cư nuôi lợn đến nỗi làm tắc hết đường thoát nước!).

Xung quanh đó là những câu chuyện bi thương của người lính “B quay” bị dồn đến bước đường cùng, là nỗi chua chát của những trí thức vỡ mộng sau cả tuổi thanh xuân hy sinh cho một lý tưởng cao vời giờ mới thấy không phải dành cho con người sống thực, là nỗi ám ảnh “hình ngục nan đào” với những thẩm vấn, theo dõi, gài bẫy, phản bội… mà ngành an ninh dùng để khủng bố những người viết có tư tưởng “chống đối”. (Tôi nhớ từ lâu mình đã đùa bảo các ông anh Dương Tường, Xuân Khánh, Châu Diên… ở Hà Nội bị cái “flicisme” nó ám – thấy chỗ nào cũng “flic”, thấy ai cũng “flic” (cớm chìm). Trong bài thơ Người đi tìm mặt năm 1973 của tôi có hình ảnh “Mặt ga đêm/miệng mở ngủ/ Giật thức/ mắt kinh hoàng” chính là ám ảnh “flic” ở mọi nơi. Đến khi bị bắt trong vụ Về Kinh Bắc, tôi mới biết các anh không hề tưởng tượng).

Riêng sức mạnh tả thực xã hội ấy của Trư cuồng đã vượt hẳn tầm “hiện thực phải đạo” chung của văn chương chính thống mấy thập kỷ. Nhưng chưa đâu! Cái chưa từng thấy trong rừng văn làng nhàng kia, chính là nỗi suy tư đau đáu về xã hội, về lý tưởng, về cuộc đời… Từ hiện thực của “lợn và người”, anh Khánh suy tư, những suy tư không chút tư biện mặc dù nhiều chỗ “nghĩ thành lời”, độc thoại, đối thoại (kể cả trong những cuộc thẩm vấn).

Ai cũng biết có một thuở suy nghĩ là việc nguy hiểm ở nước ta. Suy tư, hay “phản tư” về lý tưởng chính trị có thể coi là hành động dũng cảm nhất của mấy thế hệ trí thức dấn thân ở miền Bắc Việt Nam. Ở đây dùng từ “hành động” là theo nghĩa triết học, nhưng cũng theo nghĩa rất thật mà an ninh dùng để buộc tội họ. Chỉ cần mấy kẻ gặp nhau, xới lên câu hỏi Que faire? (theo tiêu đề cuốn sách của nhà Cách mạng Dân chủ Nga TK 19) đã là “hành động”, thậm chí “hành động có tổ chức”, đủ để lĩnh một cái “án cao su” có thể kéo dài hết đời người. (Chắc những blogger, những nhà bất đồng chính kiến thời nay thấy từ thưở đó đến giờ câu chuyện có khác về mức độ nhưng vẫn y xì về bản chất!).

Cũng vẫn chưa! Điều day dứt nhất của tác giả Trư cuồng mà hiện thực “lợn” thúc ông đi đến tận cùng của suy tư: đó là “sự ô nhiễm” của chuồng lợn vào xã hội người. Thực ra “tính lợn” đã tồn tại trong con người qua hàng ngàn năm. Bản chất của nó là gì? Theo tác giả, “lợn sinh quan” chính là:
“Hãy chỉ biết ăn  – Ăn toàn bèo cũng được. Cứ ăn cho đến lúc cái bụng ta to bằng cái thúng, và thế là cảm giác no nê, thỏa mãn, hạnh phúc sẽ đến. Tuyệt đối chớ nên suy nghĩ, vì suy nghĩ là mầm tai ương”.

Chế độ chính trị hiện đại đã tạo điều kiện cho “tính lợn” trở thành “bái trư giáo”, khi những tên đồ tể lên ngôi với triết lý sống “cắt tiết cuộc đời” rùng mình của chúng. Càng nguy hiểm khi bọn đồ tể, hoặc con cháu mang máu huyết của chúng, hết cần mặc áo máu và cầm dao lá lúa mà vẫn “cắt tiết cuộc đời” một cách êm  ả trong bộ thời trang có khi “made in USA” hẳn hoi với những mối quan hệ dằng dịt và đặc quyền hiến định.

Nguy hiểm cao độ khi chính những người trẻ tuổi một thời tâm huyết, có ngày tặc lưỡi tự biện minh việc quẳng những Tchekhov, Dos, Sartre… cho lợn ăn vì nhu cầu “cái bụng trước đã” (có khác gì những khẩu hiệu “vivre d’abord” – sống cái đã – hay “kinh tế cái đã”, “ổn định cái đã”?), để rồi trở thành “con rể” và học trò của bọn đồ tể lúc nào không biết!

Nguyễn Xuân Khánh dạo ấy thật sự bi quan. Ám ảnh “Trư cuồng” (Porcinomanie – danh từ ông bịa ra, nghĩa đen là thói tật sống kiểu lợn) không lối thoát đã đưa anh vào cơn ác mộng mang dáng dấp Trại súc vật của Georges Orwell, một cõi “Cực-Thiên-Thai” mà những “đỉnh cao trí tuệ” toan tính úp lên đầu nhân loại trong đó gã Công dân số 1 hiện nguyên hình con lợn Bò. Rồi anh tỉnh dậy, chứng kiến đứa con trai mê triết của mình quyết định bỏ sách cầm con dao lá lúa đồ tể để cứu cái bụng của cả nhà!

Anh chỉ còn biết hóa thân vào người cựu chiến binh trèo lên ngọn cây kêu lên lời cảnh báo vô vọng “Pooc xi nô ma ni…” rồi ngã xuống chết tốt giữa đám đông ngơ ngác!

Lời cảnh báo 30 năm còn nguyên vẹn. Những dự báo của nhà văn đang thành sự thực nhãn tiền trên đất nước này: “Bái trư giáo” đã biến thành quốc nạn tham nhũng và ăn cướp, thành lối sống trơ trẽn vô sỉ, đẩy lùi văn hóa giáo dục về điểm báo động đỏ. Trong khi lời cảnh báo thiết tha của tác giả vẫn bị nhốt trong ngục tù kiểm duyệt! Đó là một tội ác!

Ảnh: Hoàng Hưng – Dương Tường – Xuân Khánh – Châu Diên, Hồ Gươm 2010
Ảnh: Hoàng Hưng – Dương Tường – Xuân Khánh – Châu Diên, Hồ Gươm 2010
Mãi đến năm 2005, người đọc mới có được một bản Trư cuồng online do anh Châu Diên giới thiệu cho tủ sách Talawas.

Để kết thúc, xin tiết lộ một chuyện lẽ ra đã động trời từ 30 năm trước, liên quan đến Trư cuồng.

Tháng 8 năm 1982, trước khi tôi chia tay các ông anh vào lại Sài Gòn, anh Khánh nói với tôi rất nghiêm chỉnh: “Cậu có cách nào in cái Trư cuồng này ra, bất kể ở đâu, tớ sẵn sàng chịu mọi hậu quả!”. Tôi nhận lời mà thực sự cũng chưa biết cách nào đáp ứng nguyện vọng của anh. Hình thức “samizdat” (tự xuất bản ở Nga thời cuối Cộng) chưa có tiền lệ ở Việt Nam, mà việc gửi ra nước ngoài thì quá nguy hiểm và tôi cũng chưa có đường. Nhưng tôi cứ nhận. Phút chót, bỗng lo bản thảo bị tình cờ phát hiện trên đường đi bởi việc lục soát hàng buôn Bắc – Nam, mà thưở ấy, chẳng thể trông cậy vào đồng lương chết đói, tôi đang kiếm sống chủ yếu bằng những mặt hàng như thế (máy ảnh từ Sài Gòn ra, Hà Nội vào thì phim giấy ảnh, thuốc lá sợi, giấy cuốn thuốc lá, cả mỡ lợn nước…). Tôi bèn nhờ người bạn học “Đảng viên nhưng mà tốt” là anh Lâm Vinh – em trai Vụ trưởng Lâm Quang Thiệp mang giùm bản thảo Trư cuồng. Anh sẵn sàng. Hôm anh đến nhà tôi lấy thư giới thiệu với anh Xuân Khánh thì biết tôi vừa bị bắt. Thật là “tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa”. Không bị bắt vì Trư cuồng (nghe còn có lý vì nó “phản động” thật), lại bị bắt (một cách hết sức vô duyên) vì Về Kinh Bắc!

Hôm cùng lên lĩnh giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội năm 2006 (tôi: tập thơ Hành trình, anh Khánh: tiểu thuyếtMẫu thượng ngàn), đứng bên nhau anh Khánh bật cười phụt ra nửa câu về câu chuyện 30 năm cũ, nhưng rồi nhịn lại.

Thì bây giờ tôi kể rõ, vì bây giờ tôi mới thực hiện được cái việc anh gửi gắm 30 năm trước. Và đây, nó là cuốn thứ 4 trong tủ sách HHEBOOKS của tôi. Đây là bản PDF tôi chuyển từ file của anh Châu Diên gửi, chỉ sửa lỗi chính tả đôi chút, và nhờ làm bìa (sẵn sàng để in khi có cơ hội).

Tháng 8 năm 2012
H.H.

http://boxitvn.blogspot.com/2012/09/tru-cuong-loi-canh-bao-30-nam.html


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét