12-7-2009
(TuanVietNam)- Quan niệm coi trọng
tình cảm hơn lý lẽ đã khiến người Việt không ưa kiện cáo, nhưng lại sa đà vào
những cuộc đôi co vặt triền miên. Xưa nay, người Việt thường có xu hướng tìm kiếm
cái cốt lõi đời sống, cái tâm thế sinh tồn đằng sau những vấn đề phức tạp để giải
quyết cái “căn nguyên của mọi căn nguyên” thay vì đối mặt với chính những vấn đề
nan giải....
Lý lẽ của ông chủ
Trong dân gian Việt Nam có câu
chuyện vui kể về một ông quan đi ăn cỗ bị tên hầu ăn hết món ngon nên dọc đường
về nhà ông ta dở lý lẽ đạo đức ra hành tên hầu.
Tên hầu đi trước ngựa thì ông
quát “Láo! Sao mày dám đi trước tao?”.
Tên hầu đi ngang ông cũng cáu: “Thằng
này hỗn thật! Mày lại dám sánh ngang với ông à?!”.
Tên hầu vội lùi lại đi sau
ngựa, ông càng cáu: “Thằng mất dạy! Ông là tù hay sao mà mày áp giải ông?”.
Tên hầu ức đến phát khóc nhưng vẫn
cố nén giận từ tốn hỏi chủ: “Con đi kiểu gì ông cũng nói, con biết làm thê nào
cho ông vừa lòng?”.
Lúc ấy, ông chủ mới nói toạc cội nguồn những lý lẽ của ông,
rằng: “Tại sao lúc nãy mày ăn tranh cái bánh rán của tao?”
Câu trả lời của ông quan bộc lộ
cái tâm thế của ông trong lúc đó, cái tâm thế đã đẻ ra những lý lẽ đưa tên hầu
vào ngõ cụt. Thực chất của những lý sự mà ông quan đã đưa ra là ông ta đã luôn
thay đổi hệ quy chiếu để liên tiếp đặt tên hầu vào vào vị thế của kẻ có tội.
Khi tên hầu đi trước, thì ông đặt
quan hệ hai người vào hệ quy chiếu đạo đức để phê phán nó không nhường bước chủ.
Khi nó đi ngang ông, ông lại đặt quan hệ hai người vào hệ quy chiếu quyền lực để
cho rằng tên hầu dám tự coi mình bằng vai bằng lứa với ông. Khi tên hầu đi sau
lưng ông, ông lại đặt quan hệ của ông với nó vào hệ quy chiếu hình sự để kết tội
nó coi ông là tội phạm.
Ở đây, quyền lực đã tham dự vào
lý luận trong vai trò xoay đảo các chuẩn mực, các hệ toạ độ để xem xét hành vi.
Không có lý lẽ nào cãi lại được ông quan vì ông nắm quyền quy định luật chơi!
Trong cảnh huống lý luận trở
thành bình phong để che đậy và triển khai tâm thế thì mọi đối thoại trong bình
diện lý luận là những lỗ lực vô bổ. Dù tên hầu có tìm ra lý lẽ sắc sảo để bác bỏ
sự qui tội đầy suy diễn của chủ thì anh ta cũng chỉ đưa mình dấn sâu vào tình
thế bế tắc, vì mọi lý lẽ sắc sảo của anh ta đều củng cố và tăng cường cái ý tưởng
xấu về anh ta trong tâm thức ông chủ, làm bùng lên ngọn lửa tâm thế tức giận.
Và xét trên bình diện lý luận thì
chân lý của anh ta cũng sẽ bắt gặp quyền phủ quyết của ông chủ bởi một siêu lý
là: “Mày lại dám dạy khôn ông ư?”, hoặc trắng trợn hơn: ”Ông sai đấy, thì đã
làm sao? Mày định đem lý sự để chống lại ông phỏng?”
Vậy là, trong thân phận kẻ tôi tớ
thì dù tên hầu có dùng lý luận xác lập được cho mình một chỗ đứng hợp đạo lý
trong không gian thực, thì chính hành vi lý luận đúng đắn đó lại là sự vi phạm
luật chơi sâu sắc hơn trong không gian quyền lực. Ở đây, cuộc đối thoại không
phải là cuộc thẩm vấn trong toà án có luật pháp thẩm định, cũng không phải là
cuộc đấu trí trong cuộc chơi có luật chơi bảo đảm công bằng, mà là một cuộc xua
đuổi, truy kích của người trên với kẻ dưới, một cách triển khai quyền lực, một
hình thức phát lộ tâm thế.
Tâm thế chi phối cách nhìn, cách
nhìn tạo ra lập luận và lập luận lại luôn luôn biến hóa khôn lường nhờ quyền lực
luôn luôn đứng cao hơn các chuẩn mực thành văn hoặc bất thành văn. Đó là tấn bi
kịch hài lý luận mà tên hầu đã bị ông quan đẩy vào. Cái trớ trêu ở chỗ khi tên
hầu chân thành suy nghĩ về đạo lý và đối chiếu những chuẩn mực đạo lý với hành
xử của mình thì ông quan kia lại chỉ nghĩ về cái bánh rán mà thôi!
Hội giả trang của ý chí và quyền
lực
Lý luận kiểu ông quan trong câu
truyện trên đây tiêu biểu cho cơ chế hoạt động lý luận trong các xã hội phương
Đông - nơi dường như các hoạt động lý luận có xu hướng vượt thoát khỏi những
hình tướng ổn định của luật chơi khoa học để vong thân trong những hội giả
trang của ý chí và quyền lực. Và như vậy, lý luận khó có thể là chỗ dựa của người
dân để đòi quyền sống hay công lý.
Vì muốn phân biệt đúng sai trong
các cuộc tranh cãi nơi tòa án hay trên công luận, thì điều tiên quyết là chuẩn
mực xem xét vấn đề phải rõ ràng và ổn định. Nhưng trong xã hội trọng tình, cảm
tính và linh hoạt như xã hội Việt Nam thì các chuẩn mực xem xét mọi vấn đề phần
lớn tùy thuộc vào con người cụ thể trong bối cảnh cụ thể.
Nhưng dù trong xã hội Việt Nam
cho con người lý luận có lắc lư chảo đảo đến đâu thì cái quan niệm “một trăm
cái lý không bằng một tý cái tình” vẫn là một quan niệm ổn định, giống như hòn
bi dưới đáy con lật đật. Trong Truyện Kiều có hai phiên tòa quan trọng thì cả
hai đều xử theo tình. Trong phiên tòa thứ nhất xử vụ Thúy Kiều bỏ lầu xanh
chung sống bất hợp pháp với Thúc Sinh, viên quan mặt sắt đen sì đã tuyên án trị
tội Kiều rồi, vậy mà khi thấy Kiều quả thực có tài, người đại diện pháp luật “mặt
sắt đen sì” này không ngần ngại phán quyết ngược lại, tha bổng cho Kiều và
tuyên bố một luật chơi văn hóa cao hơn luật pháp:
Đã đưa đến trước cửa công
Ngoài thì là lý song trong là tình
Ở phiên tòa thư báo ân báo oán,
“chính danh thủ phạm” Hoạn Thư lại được bà lớn Kiều tha bổng cũng chỉ vì Hoạn
Thư kể lể chút tình đã giành cho bà lớn.
Chính cái quan niệm coi trọng
tình cảm hơn lý lẽ đã khiến người Việt Nam không ưa kiện cáo, nhưng lại sa đà
vào những cuộc đôi co vặt triền miên. Câu thành ngữ "kiến kiện củ
khoai" chẳng phải và bằng chứng về tâm lý hoài nghi công lý của của cả một
cộng đồng đó sao? Cái tính ghét kiện cáo, hơn ghét bất công, ghét kẻ la làng
hơn ghét kẻ cắp vẫn là một căn bệnh trầm kha trong tâm lý người Việt chúng ta
hôm nay mặc dù chúng ta đã có rất nhiều cố gắng trong việc xây dung một xã hội
pháp quyền.
Khi thấy dân tình kiện tụng các
quan hay khuyên “Sao hai bên không ngồi lại với nhau đi?”. Lời khuyên chân tình
đó bộc lộ một quan niệm đầy tính tương đối về chân lý, theo đó, những mâu thuẫn
khiến người ta đưa nhau đến tụng đình không phải là những mâu thuẫn về định hướng
tư tưởng có liên quan đến số phận của cả một cộng đồng, không phải là những chiến
lược khoa học kỹ thuật có thể đưa đất nước lùi lại cả trăm năm…mà chỉ là mâu
thuẫn giữa hai cá nhân vì những ấm ức liên quan đến quyền lợi hay danh dự nào
đó có thể thu xếp được!
Cái quan niệm đơn giản và dung tục
đó khiến người ta cư xử với những vụ kiện lớn vì đại nghĩa, những kiến nghị lớn
vì quốc kế dân sinh…một cách vô trách nhiệm. Những người kiên quyết kiện Vedan
và các công ty hủy hoại môi trường như Vedan vì họ muốn có một môi trường sống
lành mạnh cho hàng triệu con người, muốn các công ty vào đầu tư ở Việt Nam phải
nghiêm chỉnh thực hiện những quy định về môi trường của Việt Nam.
Những mục đích cao cả này xuất
phát từ sự am hiểu về khoa học và tường tận về pháp lý, muốn thuyết phục họ rút
đơn hay bác bỏ đơn của họ phải có sự đối thoại khoa học và pháp lý sòng phẳng,
nghiêm chỉnh, không thể hòa giải theo lối khuyên nguyên đơn ngồi lại với bị đơn
để thỏa thuận những điều kiện gì đó, trong khi vấn đề môi trường đe dọa quốc kế
dân sinh trong những đơn từ kiến nghị kia vẫn con nguyên đấy!
Nghĩa là, không thể phớt lờ khía
cạnh khoa học và pháp lý của vấn đề, đem quyền lực ra đẻ xoay đảo chuẩn mực,
thay đổi luật chơi theo kiểu ý chí luận, đánh bùn sang ao.
Chiếc bánh rán và siêu giải quyết
Xưa nay, người Việt chúng ta thường
có xu hướng tìm kiếm cái cốt lõi đời sống, cái tâm thế sinh tồn đằng sau những
vấn đề phức tạp để giải quyết cái “căn nguyên của mọi căn nguyên” thay vì đối mặt
với chính những vấn đề nan giải. Chúng ta hay nói, “rốt cục là”, “cốt tuý vấn đề
là” , “thực chất là...”, “chung quy là....” chính là chúng ta đang làm cái thao
tác giải mã của ông quan khi nói ra vấn đề cái bánh rán trong bữa tiệc kia.
Chiếc bánh rán tung ra như một
siêu giải quyết, đập tan mọi lý lẽ, xóa hết mọi ngụy biện, tên hầu dù đúng đến
mấy cũng phải cúi đầu. Đó là dùng bản lĩnh hành động, "dằn mặt" để giải
quyết sự bế tắc nan giải của bài toán lý luận mà lịch sử xã hội đặt ra.
Người ta vẫn nói rằng những bế tắc
của lý luận chỉ có thể giải quyết bằng hành động lịch sử hành động trong đời sống
xã hội là như vậy đó! Triết lý với cây búa đập vỡ các thần tượng của Nietzsche
hay tư tưởng nói rằng “Vũ khí của sự phê phán không thể thay thế sự phê phán bằng
vũ khí” của K.Marx tuy khác nhau về bản chất nhưng có cùng một định hướng ứng xử
theo lối siêu giải quyết.
Ta cần hiểu siêu giải quyết trong
các tư tưởng của họ là siêu giải quyết trong phạm vi toàn xã hội và ở cấp độ những
nhiệm vụ lịch sử của môt thời kỳ. Nếu áp dụng máy móc tư tưởng đó vào các việc
cụ thể trong đời sống thì chỉ dẫm đến sự can thiệp thô bạo vào lô gích đặc thù
cuả một lĩnh vực, đánh tráo vấn đề, xí xoá vô nguyên tắc dẫn đến những hành vi
bạo lực vi phạm luật pháp và luật chơi, tương tự như người chơi cờ bị chiếu tướng,
không gỡ được nước chiếu bí thì quay sang tát tai đối thủ hay cầm cả bàn cờ đập
lên đầu anh ta.
Tình trạng đơn giản hoá, đánh
tráo vấn đề, đánh tráo chuẩn mực, đánh tráo nhiệm vụ dẫn đến đảo ngược công tội,
lẫn lộn trắng đen là một hiện tượng khá phổ biến hiện nay, mà cơ chế ở chiều
sâu của tâm thức là thói tuỳ tiện manh mún và thực dụng trong nhận định suy tư
và lý luận. Lẽ ra phải bắt kẻ cắp thì lại kết tội kẻ la làng là gây ồn, lẽ ra
phải xem xét phân minh rành rọt là rõ đúng sai trong các quan hệ mâu thuẫn thì
lại kêu gọi đoàn kết, bỏ qua....
Hậu quả của tâm thức ngại lý luận,
sợ lý luận, lười lý luận, dùng các hành vi phi lý luận để phủ quyết bản thân hoạt
động lý luận sẽ dẫn xã hội đến tình trạng hỗn loạn u mê trong tầng tầng ngộ nhận
chân thành và nguỵ biện.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét