Phạm Hồng Sơn
21-9-2012
"Tòa án mở cũng như tất cả mọi khía cạnh công lý và bình đẳng khác của xã hội Việt Nam chỉ trở thành hiện thực khi công cuộc cách mạng dân chủ thành công. Đó là một hành trình gian nan nhưng chúng ta phải mạnh dạn dấn bước."
Nam Hải Trường Sơn
Chỉ còn 03 ngày nữa là đến phiên tòa xét xử ba thành viên của Câu lạc bộ Nhà báo Tự do và 05 ngày nữa là tới phiên tòa phúc thẩm dành cho bốn anh em người Công giáo còn rất trẻ. Lẽ thường nói đến “Tòa Án” hay “Phiên Tòa” là người ta phải nghĩ tới Công lý, phải liên tưởng tới những thủ tục nghiêm cẩn, khách quan, phân minh, chính trực nhằm tìm ra Sự thật và lập lại Công Lý.
Nhưng liệu những “phiên tòa” sắp diễn ra nói
trên có thể mang lại Công lý, Sự thật, dù là chút nhỏ nhoi, không? Hy vọng bài
viết sau sẽ giúp chúng ta tìm được câu trả lời cho câu hỏi khắc khoải này.
Nam Hải Trường Sơn
Nguyên tắc tòa án mở (open
courts) là một nền tảng chủ chốt của hệ thống tư pháp độc lập trong các xã hội
dân chủ tự do và việc xét xử công khai (public trial) là hiến quyền tại nhiều
nước phương Tây. Vào tòa quan sát việc xét xử cũng dễ dàng và đơn giản như vào
thư viện công cộng đọc sách. Kiến nghị hay xin phép tham dự là chuyện thừa thãi
không cần thiết, phí phạm thời gian và tài nguyên của tòa án cũng như của chính
mình.
Mục Đích Của Nguyên Tắc Tòa Án Mở
Nguyên tắc tòa án mở phát xuất từ
mục đích phục vụ năm nhu cầu chủ yếu của một hệ thống tư pháp công chính.
Thứ nhất, tòa án mở có tác dụng
duy trì tiến trình duyệt xét chứng cứ hữu hiệu. Về mặt tâm lý chủ quan, sự hiện
diện của khán giả sẽ giảm thiểu khả năng khai man và bóp méo sự thật của nhân
chứng bằng cách khuyến khích tinh thần trách nhiệm trước dư luận công chúng
(qua biểu tượng của khán giả hiện trường đang sẵn sàng khinh miệt kẻ gian dối
trước tòa). Đồng thời, sự hiện diện của khán giả sẽ khiến nhân chứng e sợ rằng
lời khai man của họ có thể bị những người biết rõ nội tình trong đám khán giả
(hoặc những người khác được khán giả hiện trường báo cho biết về lời khai của
nhân chứng) vạch trần. Về mặt cơ hội khách quan, tòa án mở tạo điều kiện cho những
người biết rõ nội tình tham gia quan sát việc xét xử và qua đó có thể đứng ra
làm chứng, cung cấp thêm thông tin (mà trước đây nguyên cáo hoặc bị cáo cũng
như quan tòa và bồi thẩm đoàn chưa hề biết) để làm sáng tỏ vấn đề hoặc để đối
chất với kẻ khai man trước tòa.
Thứ hai, tòa án mở góp phần đảm bảo
rằng quan tòa và bồi thẩm đoàn hành xử đúng đắn, có nhiệm vụ khắc phục thành kiến
cá nhân, và phản ánh giá trị của cộng đồng để tạo dựng niềm tin cho người thưa
kiện rằng trình tự cũng như kết quả của việc tố tụng là công bằng.
Thứ ba, tòa án mở xúc tiến cảm thức
chung của công dân rằng tòa án hoạt động dựa trên cơ sở chính trực và sự hiện
diện của khán giả nâng cao chất lượng của quá trình thực thi công lý.
Thứ tư, tòa án mở tạo điều kiện để
người dân có cơ hội học hỏi về cơ chế vận hành của hệ thống tư pháp và thấu hiểu
việc pháp luật ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của họ được áp dụng như thế
nào tại tòa án.
Ngoài bốn mục đích có giá trị về
mặt hệ thống và xã hội nêu trên, tòa án mở còn nhắm vào mục đích phục vụ quyền
lợi riêng của nguyên cáo, bị cáo hoặc những cá nhân khác có liên quan trực tiếp
đến nội vụ tố tụng. Tòa án mở là diễn đàn công cộng được pháp luật bảo vệ để họ
có thể mạnh dạn thổ lộ trước mặt quần chúng những uất ức hoặc bất công mà họ đã
phải âm thầm gánh chịu.
Cơ Sở Pháp Lý Tại Bắc Mỹ
Tại Canada, tòa án là trường sở
công cộng và những gì xảy ra tại tòa án là việc công cho dù tòa án chỉ đang xét
xử tranh chấp riêng tư giữa hai cá nhân hay cá thể. Bởi thế, tòa án phải được mở
rộng để công chúng tự do quan sát, thảo luận, và báo cáo những gì xảy ra tại
đó. Tính trọng yếu của nguyên tắc tòa án mở đã có một lịch sử cao quý kéo dài đến
cả mấy thế kỷ nay.
Vào năm 1913, thẩm phán Loreburn,
trong án lệ nổi tiếng Scott v. Scott, đã xác nhận rằng: "Một luật lệ
thâm căn cố đế [trong hệ thống tư pháp của Khối Liên Hiệp Anh] là công lý phải
được thực thi giữa tòa án mở." Cũng trong án lệ này, thẩm phán Shaw đã
tuyên bố rằng: "Công khai là linh hồn của công lý." Hay nói cụ thể
như ý kiến đồng thuận của thẩm phán Halsbury: "[T]ất cả các Tòa Án công lý
đều mở rộng để đón tiếp mọi thần dân của Quốc Vương."[1]
Trong án lệ R. v. Josephson,
Tối Cao Pháp Viện Canada tái khẳng định rằng: "Đặc tính công cộng và mở rộng
của tòa án là một nguyên tắc của luật phổ thông [luật tiền lệ] và nếu những điều
kiện đó không được thỏa mãn thì tòa án sẽ không tồn tại và mọi trình tự đều vô
hiệu lực."[2]
Khi Bản Hiến Chương Nhân Quyền
Và Tự Do được ban hành vào năm 1982 (được gọi tắt là Bản Hiến Chương),
nguyên tắc tòa án mở của luật phổ thông được gián tiếp đưa lên địa vị hiến quyền.
Trong án lệ Edmonton Journal v. Alberta (A.G.), Tối Cao Pháp Viện
Canada xác nhận rằng quyền tự do biểu đạt (bao gồm quyền tự do báo chí) được liệt
kê trong điều 2(b) của Bản Hiến Chương có tác dụng bảo vệ quyền tự do
tham gia quan sát việc xét xử tại tòa án.[3]
Tương tự, trong án lệ Richmond
Newspapers, Inc. v. Virginia, chánh án Burger của Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ cũng
xác nhận rằng: "Chúng ta không tìm thấy có chứng cứ gì để gợi ý rằng tính
công khai được giả định của quá trình tố tụng, mà các tòa án tại Anh Quốc về
sau gọi là 'một phẩm chất cốt lõi của một tòa án công lý' ... cũng không phải
là một đặc tính của các hệ thống tư pháp tại thuộc địa Hoa Kỳ .... Từ dòng lịch
sử được hậu thuẫn bằng những lý do có giá trị trong hiện tại cũng như trong nhiều
thế kỷ đã qua mà chưa hề bị phủ nhận và gián đoạn đó, chúng ta buộc phải kết luận
rằng tính công khai là một giả định cố hữu của chính bản chất quá trình tố tụng
hình sự trong hệ thống công lý của chúng ta." Để củng cố truyền thống này,
Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ đã phán quyết rằng quyền tham quan việc xét xử tại tòa
án hình sự của công chúng cũng tiềm tàng trong những bảo đảm của Tu Chính Án Số
I (như tự do hội tập, tự do ngôn luận, và tự do báo chí) bởi vì "nếu thiếu
quyền tự do tham gia những tiến trình tố tụng mà công chúng đã thực hiện trong
nhiều thế kỷ đó, những khía cạnh quan trọng của tự do ngôn luận và 'tự do báo
chí có thể bị moi ruột,' [nói theo ngôn từ của thẩm phán White trong án lệ Branzburg
v. Hayes]."[4]
Giới Hạn Của Việc Xét Xử Công
Khai
Tuy nguyên tắc tòa án mở là một
phẩm chất cốt lõi của hệ thống tư pháp dân chủ tự do, tham dự tiến trình tố tụng
không phải là một hiến quyền tuyệt đối. Nói cách khác, tùy theo hoàn cảnh, tòa
án có thể hạn chế quyền tham dự của một số hay toàn bộ công chúng nhằm duy trì
trật tự và bảo vệ đạo đức công cộng, thực thi công lý một cách đúng đắn, hoặc
ngăn ngừa việc gây tổn hại cho quan hệ quốc tế, quốc phòng hay an ninh quốc
gia. Sau đây là một số ví dụ cụ thể.
Tòa án là trường sở công cộng thường
có diện tích tương đối hạn hẹp và số lượng chỗ ngồi dành cho khán giả tương đối
ít. Trong trường hợp phiên tòa thu hút quá nhiều người muốn tham quan, tòa án
có thể dùng hệ thống bốc thăm hay xổ số để phân phát chỗ ngồi cho công chúng và
giới truyền thông, dựa theo nguyên tắc chọn lựa ngẫu nhiên. Tòa án có quyền từ
chối tiếp nhận công chúng nếu sức chứa của tòa đã đạt giới hạn. Tòa án có quyền
cấm người quan sát tụ tập giữa lối đi hay hành lang của tòa, để duy trì việc
thông hành. Tòa án có quyền đuổi những kẻ phá rối trật tự hoặc tỏ thái độ uy hiếp
nhân chứng ra khỏi tòa.
Tại Hoa Kỳ, Tu Chính Án Số I
không bắt buộc tòa án phải truyền hình bất cứ trình tự tố tụng nào. Trong thực
tế, khẩu biện trước Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ chưa bao giờ được truyền hình cho
công chúng xem lần nào cả. Tòa án có thể nghiêm cấm vệc sử dụng máy chụp hình
hay máy truyền hình trong nội thất tòa án.
Tòa án có quyền ban hành lệnh cấm
các cơ quan truyền thông cũng như công chúng loan báo những gì xảy ra tại phiên
tòa để bảo vệ thân phận của tất cả các nạn nhân hay nhân chứng vị thành niên
(thường là dưới 18 tuổi) trong các vụ án xét xử tội trạng bạo hành tính dục.
Tòa án có quyền mời toàn bộ khán giả ra khỏi tòa án trong khoảng thời gian mà lời
khai của nhân chứng thổ lộ bí mật quốc gia hay bí mật thương nghiệp, nhưng
không thể lâu hơn thế, cũng như có quyền loại trừ sự hiện diện của trẻ thơ dưới
hai tuổi mà không cần viện dẫn lý do.
Cơ Sở Pháp Lý Tại Việt Nam
Điều 131 của Hiến Pháp Việt
Nam 1992 (được sửa đổi và bổ sung năm 2001, và sau đây tôi sẽ gọi tắt là Hiến
Pháp) quy định: "Toà án nhân dân xét xử công khai, trừ trường hợp do luật
định." Điều khoản này có hai ý nghĩa pháp lý chủ yếu. Thứ nhất, tiến hành
việc xét xử công khai là một trách nhiệm hiến định mà bất cứ Tòa Án
Nhân Dân nào (bao gồm Tòa Án Nhân Dân Tối Cao) cũng phải thực thi nghiêm chỉnh.
Thứ hai, điều khoản này gián tiếp thừa nhận rằng công chúng có quyền tự
do tham dự việc xét xử tại tất cả mọi Tòa Án Nhân Dân. Bởi lẽ nếu người dân bị
khước từ quyền hạn này thì điều 131 sẽ trở nên vô nghĩa vì Tòa Án Nhân Dân
không thể thi hành nhiệm vụ xét xử công khai hiến định của mình khi công chúng
không có hiến quyền tương xứng để tự do hiện diện tại tòa án. Hai khía cạnh
pháp lý hỗ tương ỷ tồn này (trách nhiệm của tòa và quyền của công dân) được điều
18 của Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự diễn giải và quy định một cách rõ
ràng: “Việc xét xử của Tòa án được tiến hành công khai, mọi người đều có quyền
tham dự, trừ trường hợp do bộ luật này quy định."
Lý Thuyết Và Hiện Thực
So sánh văn bản hiếp pháp của
Canada, Hoa Kỳ, và Việt Nam, chúng ta có thể thấy rõ địa vị hiến pháp của
nguyên tắc tòa án mở tại Việt Nam được xác lập một cách trực tiếp, mạnh mẽ và
hiển nhiên hơn cả. Điều nổi bật đáng nói là trách nhiệm hiến định của
Tòa Án Nhân Dân trong việc xét xử công khai. Nhưng vẻ đẹp đối tỉ kết thúc hụt hẫng
ở ngay đây vì điều trớ trêu đáng ân hận là tu từ hoa mỹ này chẳng có tí giá trị
thực tiễn nào cả.
Lúc còn là sinh viên trường luật
tại Canada, một chuyện làm tôi rất hổ thẹn và đau lòng là khi bàn đến Hiến
Pháp của Việt Nam các bạn học cùng lớp hội thảo luật hiến pháp của tôi đã
từng tuyên bố một cách mỉa mai rằng: "Vietnam's Constitution is a
joke!" ("Hiến Pháp Việt Nam là một trò hề!").
Tôi cứng họng, bởi vì chỉ nhìn
vào điều 4 của Hiến Pháp không thôi là tôi biết mình sẽ đuối lý; nó
hiến pháp hóa sự lãnh đạo tuyệt đối và vô kỳ hạn của Đảng và đồng thời là điều
khoản duy nhất được thực sự thi hành tại Việt Nam. Đối với những phần còn lại,
vị giáo sư phụ trách lớp hội thảo này phê một câu có tính chất ngoại giao cao
hơn vì nó mang ý nghĩa nước đôi: "Just words!" Vừa như khen lại vừa
như chê. Khen, nếu chữ "just" được dùng dưới dạng tính từ: "Ngôn
từ công lý!" Chê, nếu chữ "just" được dùng dưới dạng trạng từ
(tương đương với "only"): "Chỉ là ngôn từ thôi!" Nhưng dẫu
hiểu theo cách nào đi nữa trọng tâm vẫn là chữ "words" với hàm ý là
ngôn từ hay lý thuyết không có giá trị thực tiễn.
Hơn mười mấy năm trôi qua, lời
bình của bạn học và thầy cũ của tôi vẫn giữ nguyên vẹn tính chính xác. Nhưng
tôi biết chắc họ sẽ hân hoan vô cùng nếu ngược lại ý kiến của họ không còn hợp
thời nữa. Tòa án mở cũng như tất cả mọi khía cạnh công lý và bình đẳng khác của
xã hội Việt Nam chỉ trở thành hiện thực khi công cuộc cách mạng dân chủ thành
công. Đó là một hành trình gian nan nhưng chúng ta phải mạnh dạn dấn bước.○
[1]Scott v. Scott, [1913]
A.C. 417.
[2]R. v. Josephson (1949), 7
C.R. 273 (Man. C.A.).
[3]Edmonton Journal v. Alberta
(A.G.), [1989] 2 S.C.R. 1326.
[4]Richmond Newspapers, Inc. v.
Virginia, 448 U.S. 555 (1980).
http://nhucaytrevn.blogspot.sk/2012/09/cong-khai-la-linh-hon-cua-cong-ly.html
http://nhucaytrevn.blogspot.sk/2012/09/cong-khai-la-linh-hon-cua-cong-ly.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét