14/08/2012
Gần đây có thông tin loan tải cho rằng vào năm 2009, Hà Nội
đã nộp cho Liên Hiệp Quốc một hải đồ xác nhận 3/4 “vùng biển Hoàng Sa” và 4/5
“vùng biển Trường Sa” là không thuộc về Việt Nam. Sự thật có như vậy không?
Để có thể giải đáp được điều đó, thiết nghĩ cũng nên biết
qua những khái niệm căn bản về luật biển cũng như những đòi hỏi mà Việt Nam đã
đệ trình lên LHQ.
Trước hết cần phải nói rằng “vùng biển Hoàng Sa” và “vùng biển
Trường Sa” là những thành ngữ mập mờ, không được định nghĩa trong luật biển quốc
tế. Vì vậy, theo luật pháp quốc tế, chính quyền Việt Nam không có cách nào để
xác nhận “3/4 vùng biển Hoàng Sa” và “4/5 vùng biển Trường Sa” là không “thuộc
về” Việt Nam, cho dù ví thử họ có thực tâm muốn làm vậy!
Lãnh hải (territorial sea), rộng tối đa 12 hải lý (1 hải lý
= 1852 mét). Nước chủ nhân có chủ quyền trong lãnh hải của mình, nhưng tàu thuyền
các nước có quyền đi qua miễn không gây hại (innocent passage).
Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ, exclusive economic zone), tối
đa 200 hải lý. Nước chủ nhân có đặc quyền (còn gọi là “quyền chủ quyền”,
sovereign rights) khai thác các nguồn lợi kinh tế trong nước biển, trên đáy biển
và trong lòng đất.
Thềm lục địa mở rộng (ECS, extended continental shelf), thường
là tối đa 350 hải lý từ đường cơ sở (trừ trường hợp sẽ nói sau). Nước chủ nhân
có đặc quyền khai thác các nguồn lợi trên đáy biển và trong lòng đất.
Những khoảng cách nói trên đo từ đường cơ sở (baseline). Đường
cơ sở là một đường đi theo bờ biển lúc nước xuống thấp nhất, có thể gồm những
đoạn thẳng nối những mỏm đất và những đảo gần bờ. Những phần biển, vịnh và vũng
nằm trong đường cơ sở được coi là nội thủy, tức là thuộc lãnh thổ của quốc gia.
Những quốc gia quần đảo như Philippines, Indonesia thì được vẽ đường cơ sở bọc
quanh quần đảo.
Lưu ý rằng những con số nói trên là những khoảng cách tối
đa mà một nước có thể có. Nếu bờ biển hai nước lân bang quá gần nhau, thì
họ có thể phải phân chia lãnh hải, EEZ hoặc ECS theo một tỷ lệ nào đó (không nhất
thiết là hai phần bằng nhau) và sẽ được ít hơn. Ngoài ra, dù không đụng chạm nước
nào khác, ECS còn phải được xác định theo một số tiêu chuẩn chính xác trong
UNCLOS (Điều 76, “Định nghĩa thềm lục địa”) chứ không phải chỉ giản dị là vẽ một
đường cách đường cơ sở 350 hải lý. Theo cách hiểu thông thường thì thềm lục địa
là vùng đáy biển nông tiếp cận với lục địa. Không phải là bờ biển nào cũng có
thềm lục địa, và nếu có thì bề rộng của nó cũng tùy chỗ và tùy địa thế của đáy
biển. UNCLOS đưa ra ba cách để xác định ranh giới thềm lục địa:
(a) Ranh giới thềm lục địa cách chân dốc lục địa 60
hải lý, miễn đừng cách xa đường cơ sở quá 350 hải lý. Chân dốc lục địa là chỗ
chân thềm mà độ dốc đáy biển thay đổi nhanh nhất (chẳng hạn ở cái góc chỗ đáy
biển từ dốc trở thành ngang).
(b) Ranh giới thềm lục địa ở điểm mà bề dày lớp đá trầm tích
(sedimentary rock) ít nhất cũng bằng một phần trăm khoảng cách từ điểm được xét
cho tới chân dốc lục địa, miễn đừng cách xa đường cơ sở quá 350 hải lý.
(c) Ranh giới thềm lục địa cách đường đẳng sâu 2500 m (đường
nối liền các điểm có chiều sâu 2500 m) một khoảng cách không quá 100 hải lý
(cách đo từ đường đẳng sâu này chỉ được dùng nếu một số điều kiện địa lý được
thỏa mãn).
Theo những định nghĩa này, nếu sát bờ có một vực sâu dưới
đáy biển (như vực Philippines ở ngay phía Đông Philippines) thì có thể sẽ không
có thềm lục địa mở rộng, vì vực nằm trong 200 hải lý EEZ.
Tóm tắt đòi hỏi về Thềm Lục Địa mở rộng của Việt Nam
Năm 2009 Việt Nam đã đệ trình cho Ủy Ban về Ranh Giới Thềm Lục
Địa (CLCS, Commission on the Limits of the Continental Shelf) của Liên Hiệp Quốc
hai tài liệu đòi hỏi thềm lục địa mở rộng:
1. Đệ
trình chung Malaysia-Việt Nam ngày 6/5/2009 về vùng phía Nam mô tả một
khu vực đa giác đại khái hình chữ nhật (ABCD trên Bản đồ 1) mà hai nước này
cùng đòi, và đang tranh chấp hay thương nghị chưa xong. Đây là một dải lòng biển
nằm giữa hai đường ranh EEZ 200 hải lý của Malaysia và Việt Nam, phía Đông Nam
bờ biển Nam Bộ. Đầu Tây Nam của dải biển này (đường CD) giới hạn bởi EEZ của
Indonesia, đầu Đông Bắc (đường AB) giới hạn bởi một đường kéo dài từ ranh giới
đáy biển lý thuyết giữa Malaysia và Philippines. (Ghi chú: Bản đồ 1 chỉ cốt để
giải thích các nguyên tắc vẽ đường ranh ECS trong hai đệ trình, xin xem bản đồ
trong hai bản đệ trình để biết chi tiết chính xác.)
2. Đệ
trình của Việt Nam ngày 7/5/2009 về vùng phía Bắc đòi cho Việt Nam một
khu vực đại khái hình tam giác (EFG). Cạnh Tây (EG) là ranh giới EEZ 200 hải lý
của Việt Nam, cạnh Đông là ranh giới thềm lục địa tính từ đường cơ sở lãnh hải
và chân dốc lục địa, theo những công thức đã nói trên của UNCLOS, cạnh Bắc là
đường cách đều giữa hai đường cơ sở của Việt Nam và Trung Quốc. Ranh giới thềm
lục địa phần nhiều tính theo công thức 60 hải lý từ chân dốc, ngoại trừ một điểm
ở tận cùng phía Nam tính theo công thức bề dày đá trầm tích. Theo như trên Bản
đồ 1 thì ta có thể thấy đường chân dốc thềm lục địa đại khái nằm dọc theo ranh
giới giữa vùng màu xanh nhạt (nông) và vùng màu xanh đậm (sâu) trên bản đồ đáy
biển.
Đệ trình của Việt Nam có “tránh né” Hoàng Sa và Trường Sa
không?
Có người cho rằng những
đòi hỏi thềm lục địa của Việt Nam cố ý tránh né HS-TS nên không được đầy đủ 350
hải lý. Thực ra, ta đã thấy là những đòi hỏi này bị giới hạn bởi những tiêu
chuẩn rất chính xác và chặt chẽ trong điều 76 của UNCLOS. Như đã nói ở trên,
350 hải lý chỉ là bề rộng tối đa nếu hội đủ các điều kiện địa lý, địa chất và
chính trị (không có sự hiện hữu của những bờ biển nước khác).
Tuy nhiên, trong cả hai bản đệ trình, Việt Nam không đòi hỏi
thềm lục địa cho các đảo này. Tại sao chính quyền Việt Nam đã không làm việc
đó? Chỉ có họ có thể trả lời, nhưng chúng ta cũng có thể suy đoán như sau:
1. Chưa chắc là các đảo HS-TS hội đủ điều kiện để có ECS.
Theo UNCLOS (Điều 121) “những đảo đá nào không thích hợp cho con người đến ở hoặc
cho một đời sống kinh tế riêng, thì không có vùng đặc quyền về kinh tế và thềm
lục địa”. Điều này không định nghĩa rõ ràng thế nào là “thích hợp cho con người
đến ở hoặc cho một đời sống kinh tế riêng”, nhưng hầu hết các đảo HS-TS rất nhỏ
và chắc là không thể có đời sống kinh tế riêng, cần được tiếp trợ từ đất liền.
Diện tích tổng cộng gần một ngàn hòn đảo Trường Sa chưa tới 5 km vuông.
2. Biển Đông bị vây quanh tứ phía, diện tích còn lại sau khi
các nước chung quanh đã đòi EEZ 200 hải lý chỉ còn lại một dải hẹp ở giữa. Nếu
các đảo hay một số đảo HS-TS được EEZ, những EEZ đó sẽ chiếm hầu hết giải biển
này và chồng lấn với EEZ của các nước khác, kể cả Việt Nam, và do đó diện tích
những vùng biển còn “dư thừa” để đòi ECS rất nhỏ (vì chỉ có thể đòi ECS ở những
vùng biển không thuộc EEZ của ai). Điều này có thể thấy trên Bản đồ 2: chỉ có một
vùng (xanh nhạt, đánh số 11) phía Đông Bắc là không nằm trong EEZ của nước nào
hay đảo nào, tuy nhiên vùng Đông Bắc Biển Đông rất sâu và chân dốc phía này của
các đảo HS-TS nằm sát đảo, nên ít có khả năng đòi được thềm lục địa ở đó (điểm
cách chân dốc 60 hải lý gần bờ hơn ranh giới 200 hải lý của EEZ). Về phía Việt
Nam nếu xin ECS cho HS-TS thì còn vô lý nữa là có những vùng biển đã thuộc EEZ
của mình rồi (được quyền khai thác cả nước biển lẫn lòng đất) mà lại đệ đơn xin
ECS ở đó (chỉ được khai thác lòng đất)!
Có thể có người sẽ hỏi nếu không xin ECS được cho HS-TS thì
tại sao không xin EEZ. Nhưng nên nhớ rằng những đệ trình này là cho CLCS, cơ
quan này chỉ xét cho ECS chứ không xét cho EEZ.
3. Dù có đủ điều kiện địa lý để lập hồ sơ xin ECS cho HS-TS,
hồ sơ này chắc chắn sẽ bị bác vì tất cả các nước chung quanh Biển Đông phản đối
– không những Trung Quốc mà còn Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia. Như vậy
Việt Nam sẽ gây xích mích với ASEAN và mất hết đồng minh để chống Tàu mà không
được lợi lộc gì, như đã thấy ở trên. Trong khi đó, đơn sẽ bị CLCS bác ngay vì
theo quy định, cơ quan này không cứu xét những đòi hỏi nào có tranh chấp.
4. Dù có đủ điều kiện địa lý để lập hồ sơ xin ECS cho HS-TS,
theo nguyên tắc “biển lệ thuộc đất” (la terre domine la mer), cần phải đợi tới
khi chủ quyền của Việt Nam trên HS-TS được quốc tế xác nhận rồi mới có thể đòi
EEZ và ECS (nếu có). Nếu đòi EEZ và ECS trong lúc còn đang tranh chấp này thì
không những bị bác đơn ngay, mà có một viễn tượng nguy hiểm, là nếu sau này quốc
tế công nhận nước khác có chủ quyền một phần hoặc toàn phần HS hoặc TS, những
gì chúng ta đòi sẽ đương nhiên thuộc về họ! Dĩ nhiên, chúng ta có thể quan niệm
“không đời nào quốc tế sẽ quyết định sai như vậy”, nhưng hành động trên giả thiết
lạc quan nhất mà không có “Plan B” thì đó cũng là cách… tự tử tốt nhất.
Kết luận
Nói tóm lại, không có căn cứ để cho rằng Hà Nội đã xác nhận
3/4 “vùng biển Hoàng Sa” và 4/5 “vùng biển Trường Sa” là không “thuộc về” Việt
Nam. Đệ trình về thềm lục địa của Việt Nam năm 2009 không phải là để yêu sách một
“vùng biển” mơ hồ nào mà chỉ là để yêu sách ECS. Sau này, khi chủ quyền trên
HS-TS được các nước công nhận, không có gì ngăn trở chúng ta đòi lãnh hải, EEZ
và ECS (nếu có) chung quanh các đảo. Những đệ trình của Việt Nam năm 2009 do đó
phù hợp luật biển quốc tế và thích hợp với thời điểm. Không thể đánh đồng những
đệ trình này với những hành động phương hại đến chủ quyền Việt Nam như công hàm
Phạm Văn Đồng hay một số bản đồ của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thời
“môi hở răng lạnh”.
P. Q. T.
Bản đồ 1: Đệ trình về ECS của Việt Nam năm 2009.
Bản đồ 2: Ranh giới 200 hải lý EEZ của các nước (xanh đậm),
của một số đảo lớn của HS-TS (vòng tròn xám), và vùng biển còn dư không trong
EEZ nào (xanh nhạt, đánh số 11). (Vẽ bởi Dương Danh Huy, trích lại với sự đồng
ý của tác giả)
Cám ơn
Tác giả xin cám ơn ông Dương Danh Huy đã bàn luận và góp ý
kiến về bài này.
Tài liệu tham khảo
- United Nations Convention on the Law of the Sea (UNCLOS), http://www.un.org/Depts/los/convention_agreements/texts/unclos/closindx.htm
- Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (bản dịch UNCLOS của
Bộ Ngoại giao Việt Nam), http://vea.gov.vn/SiteCollectionDocuments/cong%20uoc%20LHQ%20ve%20luat%20bient%201982.pdf
- Đệ trình chung Malaysia-Việt Nam ngày 6/5/2009, http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/submission_mysvnm_33_2009.htm
- Đệ trình của Việt Nam ngày 7/5/2009, http://www.un.org/Depts/los/clcs_new/submissions_files/submission_vnm_37_2009.htm
PHỤ LỤC
Nguyên bản UNCLOS Điều 76 về Thềm lục địa
Article 76
Definition of the continental shelf
1. The continental shelf of a coastal State comprises the
seabed and subsoil of the submarine areas that extend beyond its territorial
sea throughout the natural prolongation of its land territory to the outer edge
of the continental margin, or to a distance of 200 nautical miles from the
baselines from which the breadth of the territorial sea is measured where the
outer edge of the continental margin does not extend up to that distance.
2. The continental shelf of a coastal State shall not extend
beyond thelimits provided for in paragraphs 4 to 6.
3. The continental margin comprises the submerged
prolongation of the land mass of the coastal State, and consists of the seabed
and subsoil of the shelf, the slope and the rise. It does not include the deep
ocean floor with its oceanic ridges or the subsoil thereof.
4. (a) For the purposes of this Convention, the coastal
State shall establish the outer edge of the continental margin wherever the
margin extends beyond 200 nautical miles from the baselines from which the
breadth of the territorial sea is measured, by either:
(i) a line delineated in accordance with paragraph 7 by
reference to the outermost fixed points at each of which the thickness of
sedimentary rocks is at least 1 per cent of the shortest distance from such
point to the foot of the continental slope; or
(ii) a line delineated in accordance with paragraph 7 by
reference to fixed points not more than 60 nautical miles from the foot of the
continental slope.
(b) In the absence of evidence to the contrary, the foot of
the continental slope shall be determined as the point of maximum change in the
gradient at its base.
5. The fixed points comprising the line of the outer limits
of the continental shelf on the seabed, drawn in accordance with paragraph 4
(a)(i) and (ii), either shall not exceed 350 nautical miles from the baselines
from which the breadth of the territorial sea is measured or shall not exceed
100 nautical miles from the 2,500 metre isobath, which is a line connecting the
depth of 2,500 metres.
6. Notwithstanding the provisions of paragraph 5, on
submarine ridges, the outer limit of the continental shelf shall not exceed 350
nautical miles from the baselines from which the breadth of the territorial sea
is measured. This paragraph does not apply to submarine elevations that are
natural components of the continental margin, such as its plateaux, rises,
caps, banks and spurs.
7. The coastal State shall delineate the outer limits of its
continental shelf, where that shelf extends beyond 200 nautical miles from the
baselines from which the breadth of the territorial sea is measured, by
straight lines not exceeding 60 nautical miles in length, connecting fixed
points, defined by coordinates of latitude and longitude.
8. Information on the limits of the continental shelf beyond
200 nautical miles from the baselines from which the breadth of the territorial
sea is measured shall be submitted by the coastal State to the Commission on
the Limits of the Continental Shelf set up under Annex II on the basis of
equitable geographical representation. The Commission shall make
recommendations to coastal States on matters related to the establishment of
the outer limits of their continental shelf. The limits of the shelf
established by a coastal State on the basis of these recommendations
shall be final and binding.
9. The coastal State shall deposit with the
Secretary-General of the United Nations charts and relevant information,
including geodetic data, permanently describing the outer limits of its
continental shelf. The Secretary-General shall give due publicity thereto.
10. The provisions of this article are without prejudice to
the question of delimitation of the continental shelf between States with
opposite or adjacent coasts.
Bản dịch tiếng Việt của Bộ Ngoại giao Việt Nam
ĐIỀU 76. Định nghĩa thềm lục địa
1. Thềm lục địa của một quốc gia ven biển bao gồm đáy biển
và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phần
kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa
lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý,
khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó ờ khoảng cách gần hơn.
2. Thềm lục địa không mở rộng ra ngoài các giới hạn nói ở
các khoản từ 4 đến 6.
3. Rìa lục địa là phần kéo dài ngập dưới nước của lục địa của
quốc gia ven biển, cấu thành bởi đáy biển tương ứng với thềm, dốc và bờ, cũng
như lòng đất dưới đáy của chúng. Rìa lục địa không bao gồm các đáy của đại
dương ở độ sâu lớn, với các dải núi đại dương của chúng, cũng không bao gồm
lòng đất dưới đáy của chúng.
4. a) Theo công ước, quốc gia ven biển xác định bờ ngoài của
rìa lục địa mở rộng ra quá 200 hải lý các đường cơ sở dùng để tính chiều rộng
lãnh hải bằng:
i. Một đường vạch theo đúng khoản 7, bằng cách nối các điểm
cố định tận cùng nào mà bề dày lớp đá trầm tích ít nhất cũng bằng một phần trăm
khoảng cách từ điểm được xét cho tới chân dốc lục địa hay,
ii. Một đường vạch theo đúng khoản 7, bằng cách nối các điểm
cố định ở cách chân dốc lục địa nhiều nhất là 60 hải lý;
b) Nếu không có bằng chứng ngược lại, chân dốc lục địa trùng
hợp với điểm biến đồi độ dốc rõ nét nhất ở nền dốc
5. Các điểm cố định xác định trên đáy biển, đường ranh giới
ngoài cùng của thềm lục địa được vạch theo đúng khoản 4, điểm a), điểm nhỏ i)
và ii), nằm cách điểm cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải một khoảng cách không
vượt quá 350 hải lý hoặc nằm cách đường đẳng sâu 2500m là đường nối liền các điểm
có chiều sâu 2500m, một khoảng cách không quá 100 hải lý.
6. Mặc dù đã có khoản 5, một dải núi ngầm, ranh giới ngoài của
thềm lục địa không vượt quá một đường vạch ra ở cách đường cơ sở dùng để tính
chiều rộng lãnh hải 350 hải lý. Khoản này không áp dụng cho các địa hình nhô
cao dưới mặt nước tạo thành các yếu tố tự nhiên của rìa lục địa, như các thềm,
ghềnh, sông núi, bãi hoặc mỏm.
7. Quốc gia ven biển ấn định ranh giới ngoài thềm lục địa của
mình, khi thềm này mở rộng ra quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều
rộng lãnh hải, bằng cách nối liền các điểm cố định xác định bằng hệ tọa độ kinh
vĩ độ, thành các đoạn thẳng dài không quá 60 hải lý.
8. Quốc gia ven biển thông báo những thông tin về ranh giới
các thềm lục địa của mình, khi thềm này mở rộng quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở
dùng để tính chiều rộng lãnh hải, cho ủy ban ranh giới thềm lục địa được thành
lập theo Phụ lục II, trên cơ sở sự đại diện công bằng về địa lý. Ủy ban gửi cho
các quốc gia ven biển những kiến nghị về các vấn đề liên quan đến việc ấn định
ranh giới ngoài thềm lục địa của họ. Các ranh giới do một quốc gia ven biển ấn
định trên cơ sở các kiến nghị đó là dứt khoát và có tính chất bắt buộc.
9. Quốc gia ven biển gửi cho Tổng thư ký Liên hợp quốc các bản
đồ và các điều chỉ dẫn thích đáng, kể cả các dữ kiện trắc địa, chỉ rõ một cách
thường xuyên ranh giới ngoài của thềm lục địa của mình. Tổng thư ký công bố các
tài liệu này theo đúng thủ tục.
10. Điều này không xét đoán trước vấn đề hoạch định ranh giới
thềm lục địa giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hoặc đối diện nhau.
http://boxitvn.blogspot.com/2012/08/viet-nam-dang-34-vung-bien-hoang-sa-va.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét